Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Tượng đài truyền thông

Những dự án tượng đài nghìn tỷ thì đã được dư luận phê bình đúng lúc để giữ lại phần tiền thuế cho những việc khác có ích hơn. Có những tượng đài khác tuy không phải xây bằng bêtong cốt thép nhưng cũng tốn kém không kém đó là những thứ được xây bằng ngòi bút của các bút nô (có trả phí).



Có 500 tờ báo lề Đảng? 800 hay 1000 ... và chắc hẳn đó là nơi đang sử dụng tiền ngân sách hoặc hưởng lợi nhờ được xem là kênh truyền thông chính thức đã và đang xây nên những tượng đài để rồi chỉ để đập bỏ sau đó (mà đập theo cách cũng vô cùng tốn kém).

Người ta thấy phí khi ai đó đề xuất một thứ vĩ cuồng và viển vong nhưng lại không thấy phí khi có một dạng xây-phá như kiểu truyền thông như thế.

Tượng đài truyền thông đáng chú ý trong mấy năm qua là hình ảnh của quý ông Đinh La Thăng. Báo chí nhà nước không tiếc tiền để liên tục bơm biểu tượng ấy thành cái bong bóng khổng lồ để rồi nó nổ toan trong tháng vừa qua. Bây giờ họ lại đào thêm cái mồ nghìn tỷ nữa để chôn đi cái tượng đài ấy.

Nếu trên đời này bạn muốn kiếm cái gì mà dơ nhất, trơ trẽn nhất, tham nhất ... thì có thể bạn có thể tìm thấy một nơi rất đúng qua gợi ý của tôi như bên trên.

Ce Phan

Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017

Tuổi trẻ bung lụa, tuổi già ngẩn ngơ


*
Tội nghiệp bác tài !!!!

- Bác tài lái xe Mai Linh chở tôi ngày hôm qua. Khi tôi bước lên xe, thì bác đang mở nhạc Bolero và hỏi tôi có muốn tiếp tục nghe không? Nếu không thì bác tắt, không sao cả! Tôi bảo cứ để, nghe cũng hay và hợp với gout của tôi. Bác bảo rằng: con gái bác- 14 tuổi, hễ về nhà nghe thấy ông ấy mở nhạc Bolero là vào phòng đóng sầm cửa lại. Lúc nào cũng giận dữ như thế. Buổi sáng mà bác mở lên nghe thư giãn chút thì con bé không thể ngủ được. Nó căm hờn Bolero!


- Bác tài lái xe Phương Trang cũng bị một cô gái đi chung xe với tôi đề nghị TẮT NGAY LẬP TỨC vì ngày Quốc Khánh là ngày vui của cô ấy và cô ấy không thích nghe Bolero trên xe. Bác tài không nói tiếng nào, trước khi tắt, bác tài nhìn khẽ về cô cái, nhìn tôi, sau đó nhìn anh lơ xe và cười nhẹ như có vẻ thấu hiểu. Họ không muốn bị phiền phức nếu như cô này gọi về tổng đài và phàn nàn về âm nhạc. Thế là nguyên một chuyến xe di chuyển 7 giờ đồng hồ trong lặng thinh!

Tôi không biết nói gì hơn. Haiz ! Có vẻ như có một trào lưu gì đó đang trỗi dậy và bùng phát.

Tôi thử nghe một vài bản nhạc Bolero trước khi viết vài dòng này. Tôi nhận ra dòng nhạc này đượm buồn như nỗi buồn dai dẳng của dân tộc Việt Nam. Giới trẻ ghét nó và muốn lạc quan cà tưng sao?


*
Thi hành quyền của tôi !

(Sẽ quay trở lại sau)

Thứ Năm, 10 tháng 8, 2017

Tựa một dòng thời gian

Cố bước nhanh trước thời gian để nhìn lại
Tưởng đâu ta hiểu ta, hiểu người đã qua
Nào đâu thời gian lắm khúc hơn cả những dòng sông
Chạy nhanh để mong thấy ngọn lại phải chạy lùi

Chí nam nhân thể nào chỉ có thế nói thôi sao
Tựa ngày nào đứng trước con đường dài phía trước
Ta chọn từ đây, thời gian xa cũng thuộc về ta
Thế mà, đường chưa đi qua, phải bỏ lại xa

Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

Giáo dục chui đầu vào ngõ cụt với sự xuất hiện của nhiều "dịch vụ dạy học"


Phải nói ngay là "Dịch vụ dạy học" ngày nay có nhiều nét giống với việc bán bánh bò-bánh tiêu dạo!

Sở dĩ nói vui như vậy là vì tôi nhớ lại câu chuyện cách đây khoảng 6 năm về trước. Một đứa bạn làm cho một công ty khảo sát thị trường điền tên và nghề nghiệp của mình vào bảng khảo sát và sau đó mời một người bạn khác đóng vai của mình để tham gia phỏng vấn!

A: Anh làm nghề gì?
B: Tôi làm giáo viên
A: Anh dạy trường nào?
B: (chết cmnr, quên chưa hỏi) zzzz Tôi đi dạy dạo dạo. Chỗ nào thuê thì tôi dạy.
A: là sao anh?

Giờ ngồi nghĩ lại việc đó tự nhiên thấy mắc cười nhưng ngẫm lại thì cũng đúng phần nào!

Giáo viên bây giờ cũng làm việc sml kiếm sống và tự điều chỉnh để thị trường hoá bản thân mình.

Giáo viên bây giờ vừa biết tự soạn nguyên một chương trình giảng dạy giống một nhà giáo đầu ngành, vừa biết cách phân bổ chương trình theo lịch dạy thay đổi giống như một trưởng môn học, vừa tự quảng cáo cho chương trình học giống như chuyên viên marketing, vừa tự làm người mẫu để chụp hình đăng Facebook giống như model. hihi.

Càng kiêm nhiều thứ vào việc dạy thì sự phân tán thời gian càng nhiều. Sự chênh lệch kiến thức của giáo viên trong một môn học với học viên là không cao và chỉ giống như người đi trước dẫn người đi sau.

Học viên thì cũng tự thầy hoá khi mà có thể tự học qua các kênh học tập khác nhau. Điều đáng nói nhất là sự phát triển kiến thức theo chiều ngang có thể làm cho nhiều học viên trở nên hời hợt và lạc lõng trong những chuyện cần sự chuyên biệt một chút.

Ở Nhật Bản, các trường học kiểu eigo (trường dạy tiếng Anh) theo kiểu Grab, Uber thì càng phổ biến. Giáo viên ngồi chờ học viên đặt lịch học và đến dạy chỉ khi có người cần đến. Họ không có hợp đồng và cũng không được gọi là giáo viên (teacher). Chức danh của họ là người hướng dẫn tiếng Anh (English instructor).

Ở đó, người dạy tuy cũng được thị trường hoá và cũng múa may đủ kiểu để kiếm sống. Nhưng dù sao cũng theo kiểu hiện đại và công nghệ hoá. Ở Việt Nam, thì nhiều khi thấy nghề giáo cũng giống như việc đi bán bánh bò bánh tiêu.

Tiếc thay cho một nghề cao quý!

=======================

Ngành sư phạm tiếp tục bị "thất sủng" bởi các em học sinh giỏi.
Ngành y, ngành công an-an ninh vẫn đang là những ngành "ăn khách" nhất.
Dân tình ngày càng bịnh và càng cần được chữa trị. Dân tình ngày càng loạn và cần được chỉnh đốn.
Có một cái bệnh nữa mà không ai trị hết. Đó là bệnh dốt!

(Nói chi cho lòng thêm đau! - Ảnh và bài viết của Báo Mới)

Kết quả của ngành sư phạm hôm nay không phải là sự khủng hoảng nhất thời. Đó là hệ luỵ có xuất phát điểm kể từ khi ngành giáo dục đánh mất đi triết lý của học thuật mà trước đó đã có (Nền giáo dục #tự_do_khai_sáng)

Hôm trước chia sẻ đôi điều về kết quả tuyển sinh tệ hại của ngành sư phạm, có không ít người phản hồi rằng: Nếu giáo viên được trả lương bổng tốt như cảnh sát và sỹ quan quân đội thì chắc chắn sẽ khác!

Đúng là sẽ khác! Sẽ khác trong khâu tuyển sinh của ngành sư phạm. Sẽ có nhiều hơn những học sinh giỏi sẽ đăng ký học ngành này để rồi trở thành nhà giáo trong tương lai. NHƯNG ....

Sẽ có 1 thứ không có gì khác, đó là: Sự tự do trong giáo dục!

Sóng sau phải xô sóng trước. Người đi sau tuy học từ người đi trước, nhưng không có nghĩa là họ sẽ phải cùng đứng trên một hệ quy chiếu, hoặc quan niệm sống tương tự. Những nền tảng mới có thể khác đi rất nhiều và nhiều khi có phần đối lập. Nhưng phải như thế thì mới có hy vọng một tương lai sáng lạng sự cho phát triển dài hạn.

- Người đi trước dạy nhiều về lịch sử cận đại, và coi trọng thể chế chính trị đương thời, nhưng người đi sau có thể tìm thấy điểm hạn chế và muốn thay đổi hoặc cổ xuý cho một thể chế mới.

- Người đi trước có thể nói nhiều về triết học Mac-Le, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng người đi sau có thể đánh giá triết học Planto, Socrates, .... cao hơn và áp dụng nó trong bối cảnh của tương lai.

- Người đi trước thấy môn Anh văn, Pháp văn ... là quan trọng và áp dụng như những môn bắt buộc, nhưng người đi sau có thể sẽ sẽ thấy cần học tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Nhật ....mới phù hợp cho nguyện vọng của họ .

- Người đi trước cho rằng nền giáo dục đại chúng là quan trọng và tất cả mọi công dân sẽ phải học theo trình tự như vậy từ mẫu giáo cho đến lớp 12, nhưng người đi sau lại thấy giáo dục mang tính cá nhân hoá và tự điều chỉnh theo vùng miền và thế mạnh địa phương ... mới phù hợp.

......... và đương nhiên còn hàng triệu điều đối lập nữa.

Nói cho gọn, ngày nào ngành giáo dục nói riêng hay thế giới quan học thuật nói chung thiếu đi tính biệt lập, dị biệt và tự do thì ngày đó vẫn còn phải giải quyết những vấn đề mang tính ngắn hạn như: điểm số, tuyển sinh, chương trình học, tệ nạn giáo dục .....

Cái thiếu cấp thiết nhất đó là: TRIẾT LÝ TRONG GIÁO DỤC
=======================

Sa thải là chuyện bình thường trong mọi công việc. Nhưng cách sa thải mới thể hiện được cái cốt nhân văn của bên thuê lao động, đặc biệt là đối với mối quan hệ đặc biệt giữa giáo viên và nhà trường.

Theo bài báo, giáo viên không hề nhận được thông báo sẽ thôi việc trước. Họ đột nhiên nhận được thông báo thôi việc ngay trước thềm năm học mới.

Mọi thứ đều lấy giáo dục làm nền tảng vậy mà nơi được xem là tôn nghiêm và nhân văn nhất lại không có được cách đối xử hợp tình nhất đối với các thầy cô.

Về mặt cá nhân, tôi muốn gởi lời chúc mừng tới những thầy cô vừa được "giải phóng" khỏi những mái trường như trên. Không có gì nhẹ nhõm hơn khi loại mình ra khỏi một mớ bòng bong vô tiền, vô hậu trong nhân cách của các đơn vị đại diện giáo dục này. Hành trình sắp tới của quý thầy cô có thể là nộp đơn xin việc ở trường khác (khả năng rất khó) hoặc tự mở lớp dạy (cũng khó vì thầy cô dạy các môn ít được ưa chuộng như thể dục, đạo đức,...) hoặc chuyển nghề ... nhưng quý vị sẽ nhận ra mình không bị luỵ vào một môi trường làm việc mà không thấy tương lai (dead-end job).

(Thương cảm nhưng cũng chúc mừng quý thầy cô)

Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

Đọc lại lời nhạc "Gia tài của mẹ" và tự vấn mình

Gia tài của mẹ

- Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Một ngàn năm nô lệ giặc tầu
một trăm năm đô hộ giặc tây
hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của mẹ, để lại cho con
gia tài của mẹ, là nước Việt buồn

Một ngàn năm nô lệ giặc tầu
một trăm năm đô hộ giặc tây
hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của mẹ, một rừng xương khô
gia tài của mẹ, một núi đầy mồ

Dạy cho con tiếng nói thật thà
mẹ mong con chớ quên màu da
con chớ quên màu da, nước Việt xưa
mẹ mong trông con mau bước về nhà
mẹ mong con lũ con đường xa
ôi lũ con cùng cha, quên hận thù

Một ngàn năm nô lệ giặc tầu
một trăm năm đô hộ giặc tây
hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của mẹ, ruộng đồng khô khan
gia tài của mẹ, nhà cháy từng hàng

Một ngàn năm nô lệ giặc tầu
một trăm năm đô hộ giặc tây
hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của mẹ, một bọn lai căng
gia tài của mẹ, một lũ bội tình.

================

Tiếng nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không chỉ là tiếng than thức thời trong giai đoạn nồi da nấu thịt khi mà đất nước bị chia cắt làm hai miền nam - bắc, nó còn vọng lại như tiếng chuông ở nhà thờ, tiếng mõ ở chùa để thao thức về một giá trị nhân văn của đất mẹ gần như bị dày xéo ngay trong thời hiện đại. 

Người Việt xưa nay vẫn thường nói về nhân nghĩa như một đặc sản mà hoá ra đó vẫn mãi là món ăn tinh thần được duy trì như một loại huyền sử. Ở đâu thiếu tình người, ở đâu bỏ quên những giá trị thiêng liêng thì ở đó những con người lầm than vẫn mãi nhắc đến những điều đó như những sự mơ tưởng. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đưa tiếng nói của mình như cách mà những giá trị thuần tuý được gieo vào những người Việt thời lập quốc, rằng: gia tài của mẹ đã cạn kiệt rồi, chẳng còn gì nữa!

Mấy câu ca đầu như những lời than oán từ núi sông: "Một ngàn năm nô lệ giặc tầu, một trăm năm đô hộ giặc tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày". Cách kể ngày tháng từ "một ngàn năm", đến "một trăm năm" và chi tiết hơn "hai mươi năm nội chiến từng ngày" như cách đếm của các cụ khi mà một điều gì đó trở nên tất tay- hết sạch rồi. 

Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2017

Căn phòng nhỏ


Căn phòng nhỏ


Căn phòng nhỏ mẹ cho
Bọc ước mơ đủ lớn
Bao chí trai không sờn
Căn phòng thời vàng son


Ngày bóng lạc mây trôi
Tôi nhìn ra cửa sổ
Căn phòng vừa đủ nhỏ
Thấy niềm tin căng tròn.

Hỏi ai đủ giỏi giang
Hỏi ai lòng đủ rộng
Che đậy một quan san
Mãi tìm hoài chửa thấy

Trong buổi chiều mây bay
Tháng ngày dài lãnh lẽo
Mẹ tôi vẫn còn đấy
Bên căn phòng đơn sơ

Lặng nhìn mẹ bồi hồi
Tôi mới chợt hiểu ra
Giấc mơ là có thật
Của mẹ và của tôi.

20/7/2017-Về thăm nhà, thăm mẹ.Ce Phan

Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017

Bài thơ lục bát về tiếng Việt và nguồn gốc của chữ Quốc ngữ

TIẾNG VIỆT VÀ CHỮ QUỐC NGỮ

Thật tình tiếng Việt quá hay
Vì đầy nhạc tính và đầy thi ca
Qua năm thinh sắc mượt mà
Đơn âm thêm nữa hóa ra tuyệt vời

Khác nào nước chảy mây trôi
Khác nào chim hót khiến người ngẩn ngơ
Tràn đầy linh hoạt ai ngờ
Đã không cứng nhắc lại thơ ngập tràn

Điển hình Kiều của Nguyễn Du
Lại thơ lắc léo kiểu Hồ Xuân Hương
Huyện Thanh Quan mãi đường đường
Một nòi quý tộc ngàn phương khó bì

Đoàn Thị Điểm thôi nói chi
Thơ như rồng phượng khác gì nữa sao
Quả niềm đất nước tự hào
Nếu không tiếng Việt lẽ nào thế đâu

Nay còn chữ viết mới hay
Bởi từ ngẫu hứng người Tây đưa vào
Đường xa sóng vượt dạt dào
Qua nhiều thế kỷ mới hầu tạo ra

Trở thành kết quả kiêu sa
Hệt như hoa đẹp cắm vào bình xưa
Đúng là duyên nợ chẳng thừa
Như Trời sắp đặt dễ là người sao

Pina đúng thật đỉnh cao
Tìm ra Quốc ngữ tơ duyên ban đầu
Kế theo De Rhodes đến sau
Hợp cùng một gốc từ Bồ Đào Nha

Làm nên duyên kiếp mặn mà
Như rồng thêm móng như hoa thêm màu
Khiến giờ Tiếng Việt trước sau
Như càng chắp cánh vượt hầu thời gian

Ngàn sau thêm mãi vẹn toàn
Bởi đầy vẻ đẹp quan sang lạ lùng
Giống mây thêm được gặp rồng
Rồng mây một hội lại càng uy nghi

Ai ngờ lịch sử mấy khi
Tạo thành Quốc ngữ rõ thì ngày nay
Đâu thua gì chữ Phương Tây
Bởi vì hiện đại khó tày nhiều nơi

Cứ càng phát triển tuyệt vời
Càng thêm vẻ đẹp trong đời ai hơn
Thật là hạnh ngộ nguồn cơn
Đông Tây kết tụ hoa thơm bạt ngàn

NON NGÀN
(23/6/17)

===================

Tác giả: Ts Nguyễn Tường Bách

Sự ra đời của CHỮ QUỐC NGỮ


Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . .

Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.

Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.

Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế.

Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.

Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).

Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina.

Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.

Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.

Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.

(Trích trong email 22/06/2017 của Gs Huỳnh Chiếu Đẳng)

Lesson 2: Asking for help and directions in Japanese

I. English


A: I am lost.
B: Can I help you?
...
A: Excuse me. Can you help me? where is the pharmacy?
B: Go straight! then turn left/ right!
...
A: I'm looking for john.
B: One moment please!
(B: Hold on please! (phone))

II. Romanji


A: Mayotte shimai mashita.
B: Otetsudai shimashouka? 
...
A: SumimasenTetsudatte kuremasuka? Yakkyoku wa doko desuka? 
B: Massugu itte kudasai. Soshite, hidari / migi ni magatte kudasai
...
A: John wo sagashite imasu.
B: Chotto matte kudasai.
(B: Chotto matte kudasai. (phone))

II. Japanese


A: 迷って しまい ました
B: お手伝い しましょうか?
...
A: すみません。手伝って くれますか? やっきょく は どこ ですか?
B: まっすぐ 行って ください。そして、左 /右 に まがって ください。
...
A: John を 探して います。
B: ちょっと 待って ください。
(B: ちょっと 待って ください。)

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 6)



(Xem phần trước)

27. Ðó là đại để tinh hoa của nguyên Nho được đúc kết trong ba chữ Chí Trung Hòa mà tôi đã thử trình bày qua 4 đợt từ, tượng, số, chế để cho dễ nhận diện ra nét đặc trưng của Nho

Từ giúp cho có một ngôn ngữ sắc bén, thâu tóm cả hai đường nội ngoại.

Tượng giúp cho nho triết nhìn ra vị trí hòa giải của mình thật bao la.

Số giúp cho đi sâu vào gốc rể để thấy những chân lý ngược chiều làm nên nét đặc trưng không ai có thể phủ nhận.

Chế giúp cho thấy nho vào đời một cách đặc sắc. Câu nói của hội nghị rằng "Khổng có chân trên cả hai tàu" được biểu thị cách cụ thể cùng tột bằng 4 bước trên. Nên hi vọng chúng giúp cho kỳ nhân của Nho xuất hiện. Vì nếu kỳ nhân không ra thì đạo không căn cứ vào ai để hiện hành. "Cẩu phi kỳ nhân đạo bất hư hành". Hệ từ hạ VIII.4. Xem đấy sẽ thấy nguyên Nho khác với Hán Nho chỗ nào. Xưa nay vẫn có lưu truyền cho rằng: Nho đến hết đời Khổng Tử thì mất chính truyền. Từ đời Hán về sau Nho đã bị bẻ quặt. Tuy lưu truyền đó ai cũng công nhận ít ra cách mặc nhiên, nhưng chưa có một cuộc khai quật để biết nguyên Nho khác với Hán Nho chỗ nào. Tôi thiết tưởng Hán Nho đã nhảng bỏ mất 3 bước sau là tượng, số chế mà chỉ còn chuyên có bước đầu là từ. Ðiều ấy truyền cho tới ngày nay lại càng gia tăng gấp bội, vì khi người Tàu gặp văn minh Thái Tây thì lại càng chú ý đặc biệt đến từ.

28. Hãy nhớ lại buổi đầu một số Nho gia đã bị thôi miên vì logic đến thế nào. Khỏi đi xa về trước chỉ cần nhắc đến Hồ Thích và Phùng Hữu Lan.

Hồ Thích đã say sưa logic đến nổi đã phá luân lý Nho để đề cao khoa lý luận của Mặc Dịch, của Huệ Thi, cuối cùng chẳng đi đến đâu.

Ðến Phùng Hữu Lan thì khá hơn nên ông đã được tặng danh hiệu triết gia. Nhưng danh hiệu này mới do ông Demiéville tặng, chưa được truy nhận rộng rãi. Tuy về phương diện văn học hàn lâm thì họ Phùng có đủ, hơn nữa về đàng triết ông cũng có bề thế vì đã nhìn ra tầm quan trọng của sự vô ích, vô dụng, tức đã nhìn ra sự quan trọng của chữ không. Nhưng rồi ông đã quá nghiêng về phía Hữu, phía Lý trí đến nỗi dùng cả kinh tế để giải nghĩa thượng tầng văn hóa y như cộng sản, thành thử cuối cùng ông đã giản lược Nho giáo vào 4 ý niệm trừu tượng là Lý, Khí, Ðạo, Ðại Khối. Nho giáo là một đạo hành vi mà trình bày qua mấy ý niệm trừu tượng đó tức là đã nhổ Nho ra khỏi đất tâm linh của nó để trồng sang bên đất duy lý đa tạp rồi. Nói trắng ra là ông chặt của Nho mất một chân, còn đâu đủ hai chân tâm vật để mà lưỡng hành. Thành thử ông mới là một học giả, kiêm triết học gia (ideologue) chưa là triết gia, ít ra chưa là triết gia của Nho vốn có cả ngoại lẩn nội. Nội nằm trong ba số tượng, số, chế, còn ngoại nằm trong từ. Ông chỉ chú ý có từ với ý tức là logic. Vì sức quyến dụ của logic quá mạnh nên ta cần xét về điều đó tận nơi tổ của nó là triết học Tây Âu.

29. Logic với từ chỉ là một: Logic là sự phát triển của từ, vì logic thành bởi ý niệm, mà dấu hiệu của ý niệm là từ. Nên bám ý niệm cũng là bám từ: không đi xa hơn từ bao lăm. Ta chỉ xem cái tam đoạn luận trong Logic Aristotle ông tổ của lý luận là thấy ngay: "mọi người phải chết. Socrate là người nên Socrate phải chết". Ðó là câu mẫu của danh lý hình thức mà mấy năm đầu ban triết tôi đã tốn biết bao thì giờ học để thi, đến cuối cùng gặp câu phê bình của Nietzsche: "Logic là một lối lý luận ngu đần nhất". Mà ngu thật. Nó có đưa lại yếu tố mới nào đâu, nó chỉ đi từ sự đã biết nọ đến sự đã biết kia, chứ nó không bắc sang một miền khác, sang cỏi vô thí dụ để đặt liên hệ uyên nguyên hầu mở rộng chân trời ôm luôn cả vô thể, vì thế tôi muốn nói tiếp theo Nietzsche rằng "đó là chứng bệnh nan y, đến nổi nhiều người đã biết nó là vô ích mà cũng không sao thoát được". Khỏi nói về Nietzsche mà hãy lấy ngay ví dụ về Hegel vì ông cực kỳ chống logic mà ông cho là bất động, vì nó thành bởi những ý niệm đặc. Ông đề nghị phương pháp mới thay thế đó là biện chứng pháp là cái gì động, vì có hai mặt, thành bởi những cái chống đối nhau, nên gọi là mâu thuẫn. "Mâu thuẫn là mẹ tiến bộ", "chống đối là cha tiến hóa". Mới đọc ông, ta tưởng ông là kiện tướng dẫn ta leo trên cây cầu ngũ sắc để đi sang một thế giới huy hoàng, trung thực có hai chiều. Nhưng cuối cùng ông đã làm ta thất vọng. Cái cầu ông bắc giống cầu vòng, vươn lên thì có cao thật nhưng rồi lại cắm đầu xuống đất, thành ra một thứ duy kiểu mới, nên có người muốn gọi ông là "đứa con trụy thai của Á Châu". Con Á Châu vì có thể ông lấy hứng để lập ra biện chứng pháp ở cặp đôi Âm Dương của Kinh Dịch. Nhứt là những đề luận lớn của ông như óc thượng sử, óc phiếm thần, sự coi vũ trụ như một cơ thể (thay vì cơ khí) là những điêu na ná với lập trường Nho nên gọi là con Á Châu, nhưng là đứa con sinh sớm nên trụy thai. Vì ông mới đi hết được có một vòng ngoài, gọi là vòng kháng, mà chưa đi tới vòng trong hay vòng sinh nên cuối cùng triết thuyết của ông không thoát khỏi vòng tay của logic tức cũng lại trở nên một duy "ism" như trước, duy tâm.

30. Karl Marx chê ông là đi ngược: đầu ở dưới hai chân giơ lên trời, nên đã chữa lại cho biện chứng đi hai chân lên đất, thành ra duy vật biện chứng (Mao Trạch Ðông đã khai mạc cuộc cách mạng của ông bằng quyển "Mâu Thuẫn" là đi đúng với tinh thần một chiều của Hegel và Marx. Ðó là chiều kháng, thiếu vòng sinh). Chỉ nội một tấm gương đó của Hegel đã đủ chứng tỏ duy lý (logicisme) là một chứng ung thư chưa tìm ra thuốc chữa. Sau bao thất bại mà mãi đến tận nay logic vẫn còn được dưỡng bồi nhiều kiểu khác nhau. Nhưng phát triển đến đâu mặc, triết vẫn tiến tại chỗ. Logic không giúp cho triết có thêm chiều kích tâm linh để có được chân trên cả hai tàu. Chính tổ Logic mà còn vậy, phương chi mình còn học mót thì trông làm sao hơn đặng. Vậy phải trở về con đường hai chiều của nguyên Nho. Hãy nhớ chính vì chỗ hai chiều đó mà hội nghị Honolulu không còn chọn triết Tây vì ngầm hiểu là nó thiếu hai chiều, nên phải chọn triết Nho, vì cho rằng Nho có hai chiều. Nhưng trớ trêu thay triết Nho đã được trình bày một chiều theo triết Tây nghĩa là duy trí. Và đó là lý do tại sao Khổng Tử chưa thể ra cầm trịch là vì ông vẫn còn què, cái Nho được trình bày là cái Nho thọt, nó đi ngược với truyền thống Nho vốn đặt lập đức trước hết, thứ đến là lập công, cuối cùng mới đến lập ngôn, tức tu từ, tu lý bị kể vào hạng bét. Tôi thiết nghĩ cần trở lại con đường cũ gồm cả bốn bước từ, tượng, số, chế thì Nho mới đủ hai chân. Có lẽ chỉ nên đổi thứ tự và chỗ nhấn để hợp tinh thần ngày nay hơn. Thay vì từ, tượng, số, chế, thì nay sẽ là dụng, từ, ý, cơ. Tức nhấn mạnh đến việc làm gọi là Dụng (đối với thể là lý).

31. Từ giữ y nguyên, còn ý thay cho tượng, tức biểu tượng phải bớt để nhường quyền cho ý, cho logic, và đó là phần mà Nho phải học với triết Tây để biết phân tích thấu đáo, luận lý rành mạch, hệ thống hóa chặt chẽ để hợp tâm trạng người mới. Sau đó đến số nên đổi ra cơ để khai thác những thành tựu của cơ cấu luận. Ðó cũng là sự phục hoạt con đường Nho nguyên thủy, thứ Nho còn dùng số, đồ, biểu, biểu tượng. Cho nên với phần này ta có thể đưa lại cho Nho những khía cạnh mới mẻ hợp cảm quan thời nay. Người nay đã chán lối suy tưởng duy lý, trừu tượng, khô khan, và đang mong muốn một thứ triết cụ thể. Với cơ cấu cùng các tùy phụ như tiêu biểu, truyền kỳ, chúng ta có thể nếu không tạo dựng một nền triết mới ít ra cũng nhìn Nho bằng một lối mới, một kiểu trình bày Nho một cách cụ thể, có màu sắc, có truyện tích, điểm pha lịch sử cho bớt tính chất trừu tượng của duy lý. Và trên hết là dụng.

32. Dụng là làm, tôi muốn dùng chữ này thay cho chữ chế là có ý mở rộng chế hơn. Tôi muốn dùng chữ này trước hết để chỉ tất cả mọi lời nói phải hướng vào hành động, cần gạt bỏ những vấn đề quá hàn lâm, thuyết lý. Sau là muốn chỉ những hoạt động nào nhằm tu thân. Vì nhiều thể chế cũ nay đã lỗi thời. Và vì lối tu thân xưa đã thất, nói vắn tắt là nhạc đã mất, nên không còn rõ người xưa tu cách nào. Ta có thể thay vào bằng thi ca, nghệ thuật thì mới có phương tiện thanh lọc tâm tình để cân đối với logic suông.

Ngoài ra nên thêm một lối thiền mà ta ưng ý hơn hết. Vì thiền cụ thể hóa lối tu trong nhà Minh Ðường hơn cả. Thiền đi vào nội tâm để trai tâm y như Minh Ðường là để thực hiện lời Kinh Dịch "Dịch cô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Dịch là không suy tư, không làm nữa, ngồi bất động để rồi tự nhiên thấu suốt các lời lẽ đất trời". Phải có thế thì Mạnh Tử mới nói được câu "phản thân nhi thành lạc mạc đại yên". Có như vậy mới đúng câu mở đầu sách Luận Ngữ "vừa học vừa tập vui biết mấy" (câu 2), và câu sách Ðại Học (câu 3) "Hữu phỉ quân tử như thiết như tha, như trác như ma. Người quân tử chú ý đến tu thân cách chăm chú như người thợ ngọc "như cắt, như dũa, như đục, như mài" Bỏ phần tu luyện thì làm sao có thể nói những câu như thế, làm sao có thể nói vừa học vừa tập vui biết mấy. Không có tập luyện thì lấy gì mà vui. Mà tu tập là một kiểu thiền nào đó. Cái ấy tôi gọi bằng tên bao quát là dụng. Phải Dụngtrên đầu, trước cả từ, ý, cơ. Ðó cũng là hợp câu châm ngôn "tiên học lễ hậu học văn". Văn là từ, ý, cơ đi sau, còn lễ là dụng, là tu luyện, là tất cả những hiện thực phải để lên đầu, phải cho là quan trọng bậc nhất. Như vậy mới có một cái gì thực nghiêm chỉnh đặng cân bằng với lý luận lý trí để thiết lập lại con đường "lưỡng hành".

33. Ðó là đại để nét đặc trưng của Nho giáo mà hội nghị Honolulu đã gọi là có chân trên cả hai tàu, cả tàu vật chất lẫn tàu tinh thần, cả dụng lẫn từ, ý, cơ. Sỡ dĩ hội nghị đã bầu Khổng Tử lên cầm trịch mà ba mươi lăm nay chưa thấy ông xuất hiện, thì truy căn ra ông còn cụt một chân: mới có đi chân từ, ý, chưa chắc đến chân cơ, dụng. Mới có học giả để nghiên cứu, chưa có triết gia để suy tư, để đưa ra những tư tưởng hướng dẫn. Thế giới tuy bao giờ cũng được hướng dẫn do ý tưởng thực, nhưng nó không chịu ăn đồ hộp là ý tưởng cũ, mà đòi hỏi những tư tưởng mới vọt lên, còn nóng sốt. Ðó là ý nghĩ của tôi về lý do sự chọn lựa của hội nghị Honolulu năm 1949, và tại sao Nho giáo chưa nổi lên được.

Tôi xin kết thúc bài nói bằng câu hỏi sau: có vẻ tư riêng hơi kỳ nhưng vì yêu thực tế nên cứ hỏi là liệu hội nghị này có chọn một triết gia nào, hoặc một loại triết lý nào để dẫn đưa nhân loại trong giai đoạn đang tới chăng? Tôi không biết rồi đây trong các cuộc thảo luận câu hỏi trên có được đặt ra chăng? Nếu không tôi ước mong được mỗi quý vị ghi ý kiến mình vào mảnh giấy nhỏ và trao cho tôi để tôi có bằng chứng mà đo mức độ tâm thức nhân loại hiện nay cũng như dùng làm kỷ niệm quý báu về hội nghị này.

Cám ơn quý vị.

Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 5)


(Xem phần trước)

IV. CHẾ

20. Ðể ngũ hành có thể trở thành khung chứa các thể chế thì tiên Nho đã kép nét ngũ hành lên: trước hết kép thành vòng trong ngoài, sự phân biệt này cung ứng cho hai chữ lưỡng hành cả một lược đồ đặc biệt, làm cho thấy rõ câu "có chân trên cả hai tàu": chân trong chân ngoài cân đối.

Vòng trong vòng ngoài là căn để của Nho, được phát triển cách cơ cấu ở đợt nhất là ngũ hành; ở đợt nhì gọi là vòng thành thì ngũ hành đã trở thành sự vật đặc. Ðây là vòng đi vào thế sự, đi vào thực hiện, nhưng vẫn lấy tâm linh làm gốc, như các số 6,7,8,9 gốc từ số 5 vậy. Vòng trong vẽ nét đứt chỉ vô, chỉ tâm, chỉ tiềm thức, làm nên phần nội thánh và phải dịch là five agents. Vòng ngoài vẽ nét liền chỉ cỏi hiện tượng tức sự vật đã thành hình, có thể dịch là five elements. Sau đó biến vòng trong vòng ngoài thành Hồng Phạm Cửu Trù.

21. Hồng phạm củu trù là đưa các số của 2 vòng trên xếp vào khung Ngũ hành kép mà thành nên như hình bên:

4 9 2
3 5 7
8 1 6

Vì có 9 lô nên Hồng phạm luôn luôn kèm theo tên cửu trù, tức đem những việc then chốt của đời sống đặt vào 9 ô của Hồng phạm để biệu thị lòng quyết tâm làm những việc đó theo như mẫu mực lớn lao nọ, tức theo trời (Thuận Thiên).

Hồng phạm chính là cái khung tiên thiên đưa ra làm mẫu mực cho các thể chế khác mà quan trọng hơn hết là nhà Minh Ðường với thể chế Nguyệt Lệnh.

Nhà Minh Ðường hay là "nhà vũ trụ" vì có ba tầng chỉ Trời, Ðất, Người. Ðó không chi khác hơn là Hồng phạm cửu trù nhưng có 12 trù (Vì 4 trù góc chia đôi thành 8) để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu nào, ở phòng nào... Vì thế gọi là Nguyệt Lệnh. Ðó là thể chế cho câu tu thân vi bản, tu sao cho người hợp với Trời Ðất thì đạt đạo. Ðó gọi là Thuận Thiên. Sự thuận thiên được biểu thị bằng màu, số, phương phải hợp nhau thí dụ mùa xuân thì phương Ðông, số 3, màu xanh; mùa hạ màu đỏ, thu trắng, đông đen...

Tuần cuối mỗi mùa vua phải ở căn giữa để chỉ sự siêu thoát ra khỏi thời gian và không gian, tức vào ở với hành ngũ vốn là "Hành vô hành, địa vô địa". Ðể làm chi? Thưa để không làm chi cả. Có còn trong thời gian không gian đâu mà làm. Vậy chỉ còn cách là "làm cái không làm" (Vi vô Vi). Trang Tử gọi đó là "Nhan Hồi ngồi mà quên đi" để có được "Trai tâm" hoặc "Hư tâm". Khi có hư tâm tức tâm hồn trống trơn thì linh thiêng sẽ xuất hiện, để xảy ra hiện tượng "Giao Chỉ" là chỉ Trời chỉ Ðất giao thoa, làm nên cuộc Thái Hòa. Ðó là đạt đạo. Kinh Dịch nói tóm lược trong câu "An thổ, đôn hổ nhân, cố năng ái". An thổ là vào ở trong Hành Thổ ngồi quên mọi sự, nhờ đó sẽ biết bản tính con người to lớn như vũ trụ, nên tất cả đều là anh em, do đó có thể yêu mọi người to lớn như vũ trụ, nên tất cả đều là anh em, do đó có thể yêu mọi người, yêu cách trung thực nên không làm hại người vì lòng yêu người của mình. Ðó là ý câu "cố năng ái".

Xem thế đủ biết thể chế Minh Ðường chính là bản gốc của Nho hay nói tu thân vi bản cũng thế, vì tu thân được cơ cấu hóa thành khung Minh Ðường, nên Minh Ðường cũng là nền móng đường lối tu thân, nó là gốc. Vì vậy thời nguyên nho Vua chỉ trị vì mà không cai trị. Việc cai trị để cho các quan, còn vua dùng hết thời gian mà tu thân, mà ở nhà Minh Ðường. Ðó gọi là vô vi nhi trị. Do đấy mà vua xưa là nhà tư tế thượng phẩm trước hết, còn chức hoàng đế chỉ là thứ yếu, tức cai trị coi như việc tùy có thể ủy thác cho các quan, còn vua thì phải lấy việc tu thân làm gốc.

Thiên Vũ cống không là lịch sữ (không có trong sữ ký) mà chỉ là bản tuồng lý tưởng diển tả cung cách hành đạo của người lý tưởng gọi bóng là Ðại Vũ thực hiện quy chế nhà Minh Ðường. Sau 4 năm tuần thứ 4 phương thì về trung ương hội với các thần ở Cối Kê. Sữ ký của Tư Mã Thiên (SM. T.3.p.413) nói vua tế phong trên núi Thái Sơn, rồi về tế Thiện trên núi Cối Kê (Kinh đô U Việt). Chữ Thiện cũng đọc là Thiền và nghĩa tương đương với thiện nhượng là nhường lại. Ðó là tinh thần hành ngũ: là đi về với chỗ trống trơn, nhường lại hết: tức trút bỏ tất cả để hội với các thần (Hội Kế) hầu đạt bản tính con người đại ngã tâm linh. Ðó quả là một lối thi vị hóa cách mênh mông thể chế Minh Ðường vậy.

26. Hồng Phạm còn là khung cho nhiều thể chế khác như Hà Ðồ, Lạc Thư được dùng nhất là cho việc suy tư triết lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động và phản động. Hành động trong Hà Ðồ là đi ra ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư là đi vào hành ngũ: ngồi mà quên đi để tiếp cận với giếng thiêng liêng đặng bồi bổ tinh thần đã sa sút khi tiếp xúc với trần cấu. Ngoài Hà Ðồ Lạc Thư còn có phép tỉnh điền.

Tỉnh Ðiền chính là sự áp dụng Hồng Phạm vào kinh tế. Người ta đã hiểu theo nghĩa đen, nên nẩy sinh ra rất nhiều tranh luận vô ích. Sự thực thì đó chỉ là lời dạy về sự phải phân chia tài sản trong nước sao cho đạt được đồng đều theo lý tưởng của Hồng Phạm, nói bóng là chia mảnh đất ra 9 ô theo cái mẩu mực lý tưởng kia. Vì thế tỉnh điền cũng chính là khung Hồng Phạm vậy. Nó ở tại Trời Người Ðất cùng tham dự cả vòng trong chỉ bằng số 3, cả vòng ngoài chỉ bằng số 9. Nói bóng là Nữ Thần Mộc (số 3) cũng có tên là Cửu Thiên Huyền Nữ (số 9). Thực ra đó là đại diện cho nguyên lý mẹ luôn luôn có mặt trong nguyên Nho tạo nên thế hòa giữa âm dương, giữa nguyên lý trong nguyên Nho tạo nên Kinh Dịch gọi là Càn Khôn. Sự hòa hợp này được biểu thị bằng nhạc. Vì Nhạc là bà chúa sự hòa hợp. Nên nhận xét chỉ có nước vua Thuấn mới có bộ nhạc. Xưa nay chưa đâu có bộ này.


Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 4)


(Xem phần trước)

III. SỐ

15. Số là bước thứ ba sau tượng. Số cũng là một thứ tượng, là kết tinh của tượng, là bước trừu tượng hóa của tượng. Thay vì nói tròn vuông thì đổi ra số lẻ (tròn) số chẵn (vuông) nhờ vậy mỡ rộng sự dùng tượng ra rất nhiều. Vì mối liên hệ chặt chẽ giữa số và tượng nên những nền văn hóa ít xài số lu bù và cách rất hệ thống, chứng tỏ đã bước mạnh vào đời.

Số củ Nho lấy từ câu Kinh Dịch rằng "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số" câu này là sự phân tích của Ngũ hành, mà Ngũ hành là một cơ cấu uyên nguyên của Nho, nhưng cho tới nay chỉ được dùng theo nghĩa ma thuật hoặc dùng để xếp loại còn dùng như cơ cấu thì hầu như chưa ai động đến. Cho nên có một số điểm rất quan trọng mà cho tới nay hầu như chưa thấy học giả nào nhìn ra. Vì thế chúng tôi thấy cần phải bàn sơ qua những điểm đó.

16. Trên tôi đã bày tỏ rằng có ba loại triết lý, mà riêng Nho biểu lộ lưỡng hành cách liên tục bằng cơ cấu. Vậy then chốt cơ cấu đó nằm trong Ngũ hành.

Vì Ngũ hành bao gồm cả có lẫn không. Chính mối liên hệ giữa có với không này làm cơ cấu uyên nguyên. là bốn hành chung quanh, không là hành Thổ ở trung cung, cũng gọi là "hành vô hành" "Ðịa vô địa". Nhờ mối liên hệ then chốt nọ mà có cơ cấu uyên nguyên: giữa Hữu là Dương thông hội với là Âm.

Vì là cơ cấu uyên nguyên nên được cơ cấu hóa thành khung ngũ hành.

17. Chỉ nội cơ cấu trên đủ nói lên nét đặc trưng của Nho mà hai loại triết kia đều không có. Thay vì Ngũ Hành chỉ có tứ tố, gọi Tố là vì cái gì bất động, một chiều như con số bốn chứng tỏ, có chia ra vẫn chỉ là số chẵn, hoặc số 1 cũng vậy.

Ðôi khi ta cũng gặp tố thứ năm như Aristle đã thêm ether vào bốn tố kia là nước, lửa, khí, đất. Nhưng ether thuộc cùng bình diện hiện tượng tức là Hữu không phải là Vô, nên kể là thiếu hành uyên nguyên đi từ Vô sang Hữu, thiếu đối đáp nền tảng. Cả bên Ấn Ðộ cũng chỉ là tứ tố, đôi khi cũng có thấy tố thứ năm như trong phái Sankkhya. Nhưng tố thứ năm cũng thuộc cùng một bình diện nên vẫn không được gọi là hành. Vì hành hàm ngụ sự đi tự Hữu sang Vô hay ngược lại. Do lẽ đó tứ tố không được cơ cấu hóa để đặt nổi mối Tương Quan nền tảng giữa Hữu với Vô và tất nhiên không có những phát triển sâu rộng thành Hồng Phạm, Lạc Thư, Minh Ðường... Tất cả đều là phát triển do câu "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số".

18. Hai bộ số trên mà Kinh Dịch tuyên dương là cột trụ vì chúng chuyên chở những chân lý nền móng của Nho. Bao lâu chưa thấu hiểu thì chưa thể trở nên triết gia của Nho. Sự thấu hiểu này nếu không làm cho học giả trở nên triết gia thì cũng giúp cho dễ phân biệt đâu là bổn đâu là ngọn. Một cái biết cần thiết cho bất cứ ai đáng mặt triết gia; nên cần bàn thêm ít lời.

Hai bộ số trên chứa ba nhóm chân lý phải gọi là ngược chiều con mắt với lương tri, nhưng nó ngược kiểu rễ cây phải mọc ngược chiều với thân cây; gốc cây đâm xuống thân cây mọc lên. Thân cây là những hiểu biết thông thường bằng lương tri, thâu nhận qua giác quan nhất là tai mắt ai cũng thấy ai cũng nghe hết. Nhưng triết nào chỉ gồm có những chân lý loại này thì kể là triết của con mắt, là triết một chiều, vì không có hạn từ ngược để đặt ra mối Tương Quan nền tảng (mà Kinh Hùng gọi là cánh Ðồng Tương). Mấy chân lý này đi theo ba bộ số 2,3,5.

--- Số 2. Chỉ chân lý ngược chiều đầu tiên là vũ trụ quan biến hóa biến dịch. Nó ngược lại tai mắt: Vì ta thấy sự vật im lìm, một khối. Ðây lại bảo là sự vật biến động, có hai mảnh nên được cơ cấu hóa bằng số 2. Chính con số này làm nên mối Tương Quan nền tảng nhờ đó Nho đáng tên là tổ sư của cơ cấu luận.

--- Số 3. Thứ đến là số 3 chỉ con người. Mắt thường thấy sự vật một là có hai là không. Không có trường hợp thứ ba: triết Tây gọi đó là nguyên lý triệt tam: middle excludle, tiers exclu. Triết Ðông lại bảo có trường hợp thứ ba: đó là vừa có vừa không một trật. Ðiều này chứng tỏ ngoài con người bé nhỏ còn có con người cao cả gọi là đại ngã tâm linh biết xem thấy cách siêu việt bên trên con mắt thường, và vì thế dung hòa cả có với không. Và do đó con số ba chỉ con người nhân chủ. Ðó là chân lý ngược đời, vì theo mắt ta thấy người chỉ là vật bé nhỏ như "cây sậy trước vô cùng tận" Thế mà ngược lại Nho bảo con người có cái Tâm bao la như vũ trụ: "Vũ trụ chi tâm" (Kinh Dịch). Vì thế Nho đáng tên là nhân chủ: con người trong Nho cũng là vua như Trời cùng Ðất.

19. Số 5 (do 2+3=5) thành ra là hành ngũ. Ði về hành ngũ cũng là đi về với số không. Lại ngược chiều nữa: ở đời ai chẳng muốn có, thế mà đây lại bảo đi về không là sao? Thưa không đây chẳng phải là không có gì hết mà là Không viết hoa, là cái Không chân thật làm nền tảng cho mọi cái có. Nó ví như cái giếng thiêng luôn luôn vọt lên nước hằng sống, nên cũng gọi là mạch Cam Tuyền để tâm nhuận những thể chế thói tục. Vì thế mà những thể chế đó được trình bày bằng khung ngũ hành như chúng ta sẽ thấy sau.

Ðó là mấy chân lý ngược chiều gắn liền với ba con số nền tảng của nho 2,3,5. Vì là nền tảng nên Nho nguyên thủy dùng những số này cách tràn ngập nó làm nên xương sống của Kinh Dịch là Kinh cội gốc của nho.



Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 3)


(Xem phần trước)

II. TƯỢNG


11. Bây giờ xét đến tượng. Tượng là bước thứ hai sau lời. Văn hóa nào bám vào lời thì phải thải bỏ hết các biểu tượng, nên Tượng chỉ có lác đác một cách cầu âu. Nhưng văn hóa muốn đi vào đời tất phải có tượng, vì nó cụ thể gần với việc, nhất là nó mềm giẻo dễ uốn nắn theo hoàn cảnh là điều cần trong đời sống muôn mặt.

Tượng lớn hơn hết trong nguyên nho là những quan niệm về Trời, Ðất, Người được biểu tượng bằng hình tròn vuông, "Thiên viên địa phương": trời tròn đất vuông. Biểu tượng này không hẳn riêng của Nho trong các nền văn hóa thời sơ khai người ta gặp hình tròn vuông lu bù, như mandala là thí dụ. Nhưng đến nay chúng đã quá lu mờ, không thể biết rõ ban đầu chúng có biểu thị trời đất chăng, cũng không biết trải qua các chặng biến hóa hình tròn vuông đã chỉ thị những gì thì chưa được tìm ra. Tuy nhiên đó là phần việc của khảo cổ và cổ sử. Riêng trong triết, người ta cũng thấy có dấu vết của một số văn hóa nghiêng về tròn, hoặc nghiệng về vuông, thí dụ như thời đại thạch thì nghiêng về tròn, như thấy trong kiểu xếp đặt theo vòng tròn trong các Menhir bên Pháp hay stonehenge bên Anh. Ấn Ðộ có biểu hiệu rắn cắn đuôi, tức cũng tròn. Ngược lại bên Sumer hay Assyria thì thiên trọng về vuông, như thấy trong hình các Ziggurat luôn luôn vuông. Quan sát theo mấy ấn tích lớn đó, ta có thể nói hầu như không nơi nào có được tròn vuông hòa hợp.

Riêng bên Nho thì tròn vuông hòa hợp và có đầy tang chứng: tiêu biểu hơn là cả đền Tế Thiên với nền vuông mái tròn. Xe vua đi thì thùng vuông mui tròn. Nho gia đi giầy vuông đội mũ tròn...

Do biểu tượng tròn vuông trên ta có thể phân ra ba loại triết. Một loại chỉ lo có tròn tức Duy Vô hoặc Duy Nhất, thiếu đa tạp chỉ bằng hình vuông. Vì vậy chỉ bằng vòng tròn. Loại hai chỉ có vuông tức là duy hữu duy đa tạp, không nghĩ tới Nhất hay Vô. Ta hãy chỉ thị bằng hình vuông. Loại ba tròn vuông hỗn hợp. Tục ngữ Việt gọi là "Mẹ tròn con vuông" tức tròn (tinh thần) thẩm thấu hay bao bọc lấy vật chất vuông.

12. Hãy soi sáng bảng trên bằng vài thí dụ tổng quát. Khi đọc Lão Trang chẳng hạn, ta thấy đó là những thiên tài cao cả, có khả năng đưa ra những cái nhìn thấu triệt, những hình ảnh ví von tuyệt vời là ta có cảm tưởng lạc vào một thế giới thần tiên, siêu thoát. Nhưng nếu tìm cách áp dụng những lời đó vào cuộc sống ta sẽ thấy lung tung. Rồi ta nhìn kỹ lại thì cảm tưởng các ngài còn ở lì lại cõi tiên mà ta gọi là cõi Nhất. Các ngài bám vào cái nhất không sao ra đa tạp được, nghĩa là trước sau chỉ có một đề tài và chỉ chuyên về nói: Nổi về Từ, Ý, không còn hơi sức cho việc làm (Dụng, Cơ), Nên ta thấy có sự bất lực kinh niên về kinh tế, chính trị của loại triết này. Như vậy theo câu "Chí Trung Hòa" thì chưa đạt đạo, tức chưa gồm cả âm, cả dương. Thực ra những lời đó không thiếu giá trị nhưng là giá trị phần mớ như về suy luận, hoặc đóng góp vào hội họa, vào tu tâm nhưng đối với đời sống toàn diện thì kể là bất lực.

13. Lối thứ hai gọi được là đa phương. Mới xem ta có cảm tưởng là rất phong phú. Tư tưởng kết nạp một cách rất mạch lạc. Nhưng khi xem kỹ lại thì tất cả chỉ có một chiều: thiếu mối liên hệ nền tảng giữa với Không, giữa động với tĩnh, giữa nhất với đa mà chỉ có đa thiếu thống nhất, nên ví được với thần Cộng công chạy vòng quanh núi Bất-chu không tìm ra lối vào thiên thai nói bóng là húc đầu vào cột chống trời, làm trời sụp. Ðó là lối suy luận của Duy lý hay Duy trí, xây trên những tượng ý (Imago - Idea) của sự vật lẻ tẻ. Kinh Dịch chỉ bằng những hình vuông rời rạc, không tìm ra được vòng tròn để bao bọc lấy, để thống nhất lại: hậu quả là vạn vật không được nuôi dưỡng "Vạn vật bất dục yên" hiểu là những ý niệm đó không được tẩm nhuận trong luồng linh lực trào lên tự thâm tâm (tiềm thức hay siêu thức) để nuôi dưỡng, nên chỉ là những ý niệm trừu tượng khô cằn, đọc vào không đủ để di dưỡng tính tình, nên triết học gia cứ phải đi tìm thêm mãi. Làm người ta liên tưởng tới chuột chạy vòng, chạy hoài mà không tới: qua hết môn phái này đến môn phái kia, quả là đa phương, nhưng thiếu hướng. Thiếu hướng đi thì môn triết học chỉ còn là cực hình Tantalus như Kant có lần đã nói thế, hoặc như Nietzsche gọi sinh viên triết là "các thánh tử vì đạo" (tử vì triết). Vì học triết đã đốc ra sự học rất nhiều ý kiến của nhiều triết gia, cuối cùng không biết theo đường nào: sự học chỉ làm khô cạn tâm hồn, trở nên cực hình và không có nuôi dưỡng, không bơm sinh lực vào tâm trí.

Bởi thế về tinh thần phải nhờ tôn giáo đảm nhận, luân lý cũng phải xây trên tôn giáo. Triết học không đủ uy tín đưa ra được nền luân lý độc lập. Thế những triết học lại thường chống đối tôn giáo: hai đàng không sao cộng tác được với nhau để hướng dẫn đời. Ðành phải đạo đời riêng rẽ. Ðó quả là một tai họa. Vì lý tưởng phải là đạo đời tương thông, và lẻ ra cả hai chỉ là một, y như xác hồn chỉ là một con người. Tuy nhiên ta cũng phải công nhận giá trị của loại này ở chổ chứng tỏ cho ta sự hạn cục của lý trí. Và vì không có lối nào mà nó đã không đi tìm kiếm nhưng đều thất bại thì điều đó cho ta một kinh nghiệm sâu xa về sự bất lực của triết học lý niệm, khiến ta phải tìm ra lối siêu thoát nẻo tâm linh. Cái giá trị của triết học duy trí ở chỗ đó.

14. Loại ba là gồm cả vào lẩn ra, cả trong lẫn ngoài, cả hữu lẩn tả , cả lý trí lẩn tâm linh. Lý trí hay vòng ngoài được biểu thị bằng hình vuông được bao bọc bằng tâm linh biểu thị bằng hình tròn thành "mẹ tròn con vuông". Hình này là biểu thị câu "vạn vật dục yên": vạn vật là vuông được vòng tròn chỉ tinh thần bao bọc. Nếu loại một là lên tiên rồi ở lì lại trên đó, thì loại ba giống Từ Thức lên tiên chơi ít lâu rồi về làng đặng cố làm cho đời sống của làng thêm tốt đẹp.

Tôi không có ý áp dụng ba loại trên vào từng nền triết đích danh nào cả, mà chỉ có ý đưa ra cái khung tiên thiên để làm cho điều muốn nói được thêm rỏ ràng. Nhưng riêng về Nho thì tôi phải cho là một trường hợp ngoại lệ, và nghĩ là nó đã đi sát loại ba hơn hết. Tôi cho chính đó là lý do Nho được hội nghị Honolulu tuyên dương là có chân trên cả hai tàu: Tinh thần và vật chất. Vật chất biểu thị bằng hình vuông được bao quanh bởi tinh thần chỉ bằng vòng tròn. Tròn vuông nói lên chữ Hòa cao sâu nhất. Trên đã nói về nét tròn như chí trung, như cột gốc. Bây giờ ta nói đến hòa như trái, và ta sẽ dùng số để triển khai điều này.


Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 2)

(Xem phần trước)

I. TỪ


8. Từ tức là lời. Lời của Nho rất ít. Khổng Tử là hiền triết nói ít nhất trong các triết gia trên đời. Ðã vậy về đạo, về nhân thì hầu ông không có lời nào. Ðấy là nét đặc trưng mà xưa nay chưa mấy được chú ý, nên cần bàn thêm. Lời nói là một phát minh rất quan trọng của con người, nó mở đường cho mọi tiến bộ về sau. Vì thế nó có sức thôi miên, gây thành khuynh hướng thờ lời như một cái gì thần thánh, mà ta còn thấy dấu vết trong những lời chú mà người xưa đã gán cho rất nhiều uy lực; nhưng sau này người ta cũng đã nhận ra tính cách ma thuật của nó. Ngoài ra lời nói cũng có sức quyến rũ khác đến nỗi những triết gia thượng thặng như Lão Trang đã hiểu rõ rằng "Ðạo bất khả ngôn", Vì thế "tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". Vậy mà các ông còn nói lu bù về đạo. Lão Tử thì để lại năm ngàn lời trong Ðạo Ðức Kinh. Trang Tử đề lại lối mười vạn lời trong cuốn Nam Hoa Chân Kinh. Vậy mà kể là còn ít so với các triết gia tên tuổi khác như Plato, Aristotle chẳng hạn, các vị nầy nói có cả hàng triệu lời.

Theo luật răng đau của Bernard Shaw rằng người ta chỉ nói đến răng khi răng đau. Cũng vậy nói nhiều quá về đạo là tỏ ra chưa đạt đạo. Phương ngôn quen nói "Nhất lý thông, vạn lý minh". Cái lý thì cùng cực đó, Lý trên nhất đó chính là Lý Thái Cực. Nếu đạt được thì tự nhiên mọi lý khác thuộc phần mớ liền sáng ra, khỏi cần nói nhiều. Còn khi không đạt cái Lý viết hoa đó thì cứ phải bày biện lý nọ lẽ kia rườm rà, quanh quất, nên có câu "Thất Lý nhi nhập ư thuật" không đạt lý nên bày ra muôn vàn lý lẽ quanh co (thuật). Vì Lý viết hoa đó là Lý Thái cực, vốn gồm cả âm, cả dương, cả có cả không, cả đa cả nhất, cảtĩnh cả động, cả sáng cả tối... Còn nếu không đạt Lý đó thì chỉ có một bên, một duy nào đó: thiếu mất bên kia, nên lời nói hết hiệu nghiệm: phải thêm hoài mà vẫn chưa cảm thấy đủ. Kinh Dịch nói:

"Nghi giả kỳ từ chi
cát nhơn chi từ quả
Táo nhơn chi từ đa"

Người còn nghi nan trong lòng thì lời nói rậm lời không có tư tưởng, (ngành ngọn: chi) Người đạt (may mắn) thì nói ít nhưng đủ để bao được cả trong lẫn ngoài. Người táo kết (bất thông) thì nói nhiều. Nhiều nên hiểu là nhiều chủ thuyết mà không có thuyết nào đạt địa vị ưu thắng.

9. Biết thế rồi ta mới thấy sự ít lời trong Nho có cái giá riêng biệt của nó. Ít lời đây không vì bất lực, nhưng là vì lời đã chứa đầy uy mãnh rồi; khỏi cần nói thêm. Theo đó ta phải tìm xem lời nào đầy đủ nhất trong Nho? thưa đó là ba chữ "Chí Trung Hòa". Ba chữ này tóm thâu tinh hoa Nho giáo cách tuyệt vời cũng như nói lên được nét đặc trưng của Nho cách thấu triệt. Cho nên "Kỳ Nhơn" của Nho phải là người nhận thức ra được mọi chiều kích ba chữ đó, để hiện thực vào thân tâm và diễn đạt ra cho mọi người cùng hiểu. Vậy chúng ta hãy dùng tượng hình và đồ biểu để trình bày sơ lược châm ngôn trên cho được rõ ràng. Câu đó nằm trong lời phát đoan của sách Trung Dung rằng:

"Trung dã giả, thiên hạ chi đại bồn dã.
Hòa dã giả, thiên hạ chi Ðạt đạo dã.
Chí trung hòa:
Thiên địa vi yên.
vạn vật dục yến".

Ðoạn văn trên chỉ rõ đâu là bốn gốc, đâu là ngọn ngành: Bốn là Trung, ngọn là Hòa. Hòa đây là Thái Hòa tức cái Hòa bao trùm hết tất cả: cả trời đất, cả vạn vật nữa. Và sự bao trùm diễn tả bằng chữ "dục" nghĩa là được nuôi nấng giáo dục.

10. Ðể hiểu rõ hơn tưởng cần giải rộng câu trên. Trước hết là về ba chữ "Chí Trung Hòa". Trong quyển "Chữ Thời" tôi đã giải rộng bằng câu "có chí trung thì mới đạt được chí hòa". Cần lắp lại chữ chí để nói lên hai đàng khác nhau. Chí trung là bổn, còn chí hòa là hoa trái ngọn ngành. Phải làm nổi bật cả hai để đặt nổi bước "Lưỡng hành" của Nho mà hội nghị Honolulu đã nói lên bằng hình bóng là "có chân trên cả hai tàu". Ðiểm lưỡng hành này ít được học giả chú ý, thí dụ James Legge dịch ba chữ kia là "Let the states of equilibrum and harmony exist in perfection", không dám nói là dịch sai nhưng bản dịch làm chìm mất tính chất lưỡng hành của câu nói. Ðọc lên người ta không thấy Trung là căn bổn, Hòa là hoa trái. Muốn cho dễ thấy được điều đó thiết tưởng phải dịch là "When the centering is utmost, the Harmony is the greatest". Dịch trung bằng chữ centering bao hàm được sự "tiến hành vào nội tâm", và khi tiến vào đến cùng cực thì đạt Thái Hòa là hòa âm với dương, tức cái hòa nền tảng, bao trùm cả trời cùng đất. Ðể giải rộng hơn nữa ta có thể nói: "The deeper is the centering, the greater is harmony" câu này đặt theo câu cách ngôn triết Tây: "plus la compréhension est petite, plus l'extension est grande". Tuy câu công lý này chỉ nằm trong bình diện ý niệm, nhưng chiều hướng thì cũng như chí trung hòa, là vào càng nhỏ thì sức bao gồm bên ngoài càng to. Theo đó, cái Hòa bên ngoài có thể dùng như tiêu chuẩn để đo dộ sâu của cái Trung bên trong. Trung là đi vào nội tâm: ta không thể kiểm soát nội tâm, nhưng ta nhờ cái Hòa vốn liên hệ với Trung cách cơ thể, nên có thể nương theo Hòa để biết Trung đi tới đâu. Nhất là khi Hòa còn được đèo thêm dấu hiệu cụ thể là sự nuôi dưỡng: sách nói nếu đạt chí Trung Hòa, thì:

"Thiên địa vi yên.
Vạn vật dục yên"

Khi trời đất được xếp đặt đúng chổ thì vạn vật đều được dưỡng nuôi. Hai chữ vạn vật ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng gồm cả tâm lý: ý, tình, chí đều được nuôi dưỡng. Tức triết không chỉ có duy lý hay duy tình, hoặc duy chí mà tất cả tình lý duy cùng tham dự. Còn trong siêu hình là cả thiên lẫn địa, cả âm lẫn dương đều có phần. Tóm lại là không duy nào cả nhưng bao trùm hết. Ðược như vậy thì là dấu Trung đã đi tới chốn: nên có được chí Hòa, và vạn vật được nuôi dưỡng, không còn khát vọng nào đói khát làm reo, khiến triết nhân phải nói thêm, nói hoài. Như vậy, ít lời không là dấu tốt sao? vì thế có thể kết luận được là Nho đã thành công ở bước Từ: không một nền triết nào có thể tóm thâu được vào ba Từ như vậy.

Lương Kim Định: Vai trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm trong thế giới hôm nay (phần 1)

Diễn văn phát biểu của Triết Gia Kim Ðịnh vào năm 1984 tại Ðệ Nhất Hội Nghị Toàn Cầu về Triết Học Trung Hoa (The First World Conference in Chinese Philosophy) tổ chức tại Ðài Trung, Ðài Loan, quy tụ các học giả khắp thế giới Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

1. Mùa hè năm 1949 ở Honolulu có hội nghị quốc tế về triết học qui tụ các đại biểu trên 50 quốc gia (đại diện Á Châu có Ấn Ðộ, Tàu, Nhật). Tôi đặc biệt chú ý tới hội nghị này vì trước hết mục tiêu của hội nghị là tìm ra cho nhân loại một nền triết lý chủ đạo. Hội nghị cho rằng vì thiếu nó mà nhân loại đã trải qua hai cuộc đại chiến hoàn cầu. Thứ đến hội nghị đã đề cử Khổng Tử làm nhạc trưởng cho cuộc hòa hợp Ðông Tây nọ vì ông có chân đứng trên cả hai tàu: vừa chấp nhận và cải thiện đời sống trần gian nhất là trong những mối giao liên của con người. Ðàng khác tuy không chấp nhận lập trường Lão Giáo độc chú vào đời sống tâm linh, nhưng cũng dọn phòng đón nhận mọi giá trị tâm linh (Essay in East West philosophy. By Charles Moore, page 447. University of Hawaii 1951).

2. Ðây là lời tuyên bố làm vinh dự cho chính những người tham dự hội nghị vì câu trên tàng chứa được ba nhận xét đều sâu xa và ơn ích. Có thể nói đây là đỉnh cao nhất mà hội nghị quốc tế Triết Học có thể tới, vì những hội nghị này ít đạt được sự đồng ý về một điều gì, nhiều khi còn là cuộc đối thoại giữa các người điếc, hoặc vấn đề đưa ra bàn cãi có tính cách xa lắc xa lơ với cuộc đời. Nhưng lần này các triết học gia đã nhìn thẳng vào đời, đã thấy đời đang mắc bệnh và gọi đúng tên bệnh tức là thiếu hồng huyết hòa, mà chỉ có bạch huyết rã, làm cho con bệnh trở nên nhợt nhạt, mất hướng đi, không biết đâu là lối về, đáng gọi là vô gia cư (homeless). Hội nghị đã thấy thế và chỉ ra bài thuốc Hòa. Toa thuốc còn ghi là "Hòa tinh thần với vật chất" lại còn chỉ rõ phải đến với dược sĩ nào. Rồi đây trong bài tôi sẽ chứng minh những lời chỉ dẫn nọ đúng đến đâu.

3. Câu tuyên bố trên quả là một sự thành tựu lớn lao do một quá trình nghiên cứu tinh thông về Nho trải dài cả trăm năm với những tên tuổi lẫy lừng như H.G. Creel, những Marcel Granet và những triết gia như Keyserling, Karl Jaspers... mới đạt được lời tuyên bố đó, tuy chỉ xảy ra trong phạm vi triết và chưa được nhiều người chú ý tới cách cân xứng, nhưng quả thật phải kể là một biến cố quan trọng có tầm mức lớn lao. Chúng ta đều biết rằng "Nhân loại bao giờ cũng được dẫn đưa do tư tưởng". Cho nên các nhà tư tưởng bầu Khổng Tử lên chức lãnh đạo triết lý Ðông Tây, thì cũng là bầu ông lên chức hướng đạo thế giới. Ðó quả là vinh dự không tiền khoáng hậu. Càng lớn hơn nữa khi ta biết rằng đứng về phương diện ngôn từ và lý luận mà đem Khổng Tử đặt bên cạnh Phật Tổ hay Socrates, Platon thì ông có phần lép vế, vậy mà lại được chọn.

4. Tuy nhiên sự tuyên dương long trọng kia lại rơi vào quên lãng liền, không gây nên một âm vang nào đáng kể ngay cả trong lãnh vực triết học, kể cả triết học Trung Hoa thì tự nhiên ta phải hỏi vì đâu. Riêng tôi nghĩ rằng cái hướng hội nghị đưa ra thì thật là đúng nhưng đó mới chỉ là bảng chỉ đường, chưa phải là Chính Ðường. Thế mà trong các lần hội nghị về sau mãi cho tới nay chưa có được một công trình nào đáng gọi là đường, tức trình bày Nho cho thấu triệt xứng tên là một Ðạo học. Vì thế tôi lấy điều đó làm đề tài cho bài này mong tìm ra chổ thiếu sót, hy vọng có thể sửa soạn cho một nền Triết Nho đầy đủ. Nếu không thì cũng là thử đề nghị một lối nghiên cứu Nho kiểu mới. Trước khi vào bài, tôi xin mở ngoặc đơn để nói lên rằng đối với tôi, Khổng Tử chỉ là đại diện cuối cùng của Nho Giáo, Nho Giáo đã có lâu trước, Khổng Tử chỉ là người truyền đạt. Vì thế khi nào bài này nhắc đến Khổng Tử thì xin hiểu đó là Nguyên Nho, nó rộng lớn hơn Khổng Giáo rất nhiều. Bây giờ xin trở lại phân tích lời tuyên ngôn nói trên của hội nghị Honolulu.

5. Trước hết tôi xin giới thiệu lướt qua lối trình bày mà tôi sẽ áp dụng trong bài này. Nó ở tại sự tóm thâu nền triết được nghiên cứu vào một hai điểm then chốt cùng cực và được gọi là cái toàn thể, rồi đem đối chiếu cái toàn thể đó với một số toàn thể khác. Thế rồi cái toàn thể kia lại được chi tiết hóa thành bốn điểm để dể xét thấu đáo. Bốn điểm đó là Từ, Tượng, Số, Chế, Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất của nền triết Nho.

- Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất của nền triết Nho.
- Tượng: là tượng hình tiêu biểu, những huyền thoại, truyền kỳ.
- Số: là những số biểu tượng gọi là huyền số.
- Chế: là những thể chế, thói tục, những phương thức sống, cách thức tu luyện.

6. Ðây là bốn khía cạnh được dùng để xét một nền triết lý nhân sinh xem có được toàn diện chăng. Một nền triết có sống được nhiều hay ít, bao quát được toàn thể cuộc sống hay chỉ phụng vụ phần mớ là tùy nó trải qua được hết cả bốn nấc thử thách nọ. Bởi thế bốn điểm trên có thể dùng như thước đo giá trị từng nền triết về phương diện vào đời. Phải công nhận rằng phần lớn triết học chỉ trải qua được có một chặng đầu. Nguyên Nho thì đã đi hết bốn bước. Nhưng tự Hán Nho thì sa đọa, nên cũng không còn người đi hết được cả bốn chặng nữa. Vì thế mà Nho bớt hiệu nghiệm. Muốn hiệu nghiệm phải có người đi được bốn bước trên. Sách Trung Dung gọi người đó là "kỳ nhân", người chính cống của Nho "Văn Võ chi chính bố tại phương sách". Kỳ nhơn tồn, tắc kỳ chính cử. Kỳ nhơn vong, tắc kỳ chính tức. TD 20. Câu trên có nghĩa là triết lý chính trị của Nho (kỳ nhân) còn, thì triết lý chính trị đó sẽ hoạt động mạnh, nếu kỳ nhơn đó mất tức chưa xuất hiện thì triết lý chính trị đó cũng như không. Vậy xin hỏi kỳ nhơn đó là ai? Thưa là triết gia Nho. Nói triết gia mà không là học giả cũng không cũng không cả quan niệm học gia, mà phải là triết gia, thì kinh điển Nho vẫn chỉ là một đống hôi mốc. Phải có triết gia Nho, phải có kỳ nhơn đó thì Nho mới hiện thân lên những tư tưởng sống động để đi vào cõi người ta. Nghĩa là triết gia đó phải có những tư tưởng cùng chiều như Nho, nhưng lại phải hợp cảm quan thời đại, phải có những cái nhìn soi dọi vào các vấn đề khúc mắc hiện nay, thì đấy mới là kỳ nhơn của Nho.

7. Bao giờ người đó đến thì không biết và có lẻ câu hỏi cũng không mấy quan trọng vì Nho vốn là triết lý tác hành, không trông cậy vào tha lực, mà phải tự mình làm ra vì thế câu hỏi đúng tinh thần nho hơn phải là: làm thế nào để chúng ta có hy vọng trở nên kỳ nhân của Nho. Hay nói cụ thể hơn phải hỏi rằng cái đặc trưng của Nho ở chỗ nào và phương pháp nào có thể ám hợp hơn hết cho ta theo để nếu không thành triết gia Nho thì ít ra cũng biết trình bày Nho một cách trung thực để con người thời đại hiểu được Nho hơn. Muốn thế việc cần trước tiên phải biết cách thấu triệt đâu là nét đặc trưng của Nho? Thưa nét đó nằm trong chỗ Nho đi được cả bốn bước Từ, Tượng, Số, Chế. Chúng ta hãy xét từng điểm:


(Xem phần tiếp theo)

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

Lesson 1: Greetings in Japanese

I- English 

A: Hi.
B: Good evening. Welcome! How are you?
A: I am good. Thank you. And you?
B: I am so-so. Thanks.
A: You're welcome. I missed you so much.
B: What's new?
A: Nothing much .
...
B: good night.
A: see you later.
B: good bye.

II- Romanji

A: yaa.
B: Konbanwa. Youkuso irasshai mashita. Ogenki desu ka?
A: Watashi wa genki desu. Arigatou. Anata wa?
B: Maa-maa. Arigratou!
A: Dou itashi mashite. Samishi katta desu.
B: Saikin dou desu ka?
A: Kawari nai desu.
...
B: Oyasumi nasai
A: Mata atode aimashou.
B: Sayonara.

III- Japanese

A: やあ。
B: こんばんは。ようこそ いらつしやい ました。お元気 です か?
A: わたし は 元気 です。ありがとう。あなた は?
B: まあーまあ。ありがとう!
A: どう いたし まして。さみし かつた です。
B: 最近 どう です か?
A: 変わり ない です。
...
B: おやすみ なさい。
A: また あとで 会いましょう。
B:  さよなら。

handwriting the above conversation - by Ce Phan 




Thứ Ba, 27 tháng 6, 2017

Có gì liên quan giữa bikini và hành vi bẩn của người Việt?


(Sưu tầm: 2 người phụ nữ người nước ngoài tắm nắng bên bờ hồ)

Câu nói "tiên trách kỷ, hậu trách nhân" có vẻ chưa bao giờ rõ ràng nhất như bối cảnh hôm nay. Người Việt, nhìn nhận lỗi sai của người Việt và phê bình trên khắp mặt báo và các trang mạng xã hội. Tôi cũng không đứng ngoài xu hướng đang lên đó, một khi thấy một sự kiện xấu liên quan tới người Việt là thế nào cũng suy nghĩ và viết vài điều về nó. Nhưng, nói chán rồi, tôi lại đi tìm cái sự hợp lý nào đó trong những chuyện không hay trên.

Mỗi cộng đồng người được gắn chặt với những quan niệm sống, lý luận và cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi địa dư. Kể từ khi phong trào toàn cầu hoá thịnh hành kể từ sau những cuộc chiến xâm lược, hoặc đấu tranh giai cấp, mọi người trong một cộng đồng bắt đầu nhòm ngó sang những người hàng xóm của mình để biết mà có những hành động thích đáng nhất về mặt đối ngoại. Nhưng chung quy lại, lợi ích dân tộc nào, dân tộc đó giữ và hiếm có chuyện một dân tộc này đi lo chuyện của nơi khác mà bỏ bê chuyện nội tại bên trong của mình.

Chuyện tương tác tích cực với nhau có thể ít hay nhiều, nhưng những khác biệt mà từng nhóm người bên trong thể hiện thì có những khác biệt lớn mà phần đông khó lòng chia sẻ được. Có thể dễ dàng thấy, người Việt cảm thấy không mấy quen thuộc và đúng đắn với một dãy dài những cô gái, chàng trai mắt xanh, mũi lõ ăn mặc mát mẻ nằm phơi nắng ở các bãi biển. Điều đó không là vấn đề nếu họ vẫn là những người đến từ những đất nước phát triển, .... nếu giả như những người đang mặc bikini kia là bộ tộc thiểu số nào đó thì có lẽ đã có nhiều hơn những chỉ trích và cấm đoán. Ở chiều hướng đối diện, sẽ không ai có thể hiểu và thứ tha cho một người Việt trong những hành vi đáng xấu hổ như: trộm cắp, trồng ma tuý, buôn lậu ... ở nước ngoài.

Đương nhiên, chúng ta sẽ mắc phải lỗi nguỵ biện ngay lập tức nếu so sánh 2 chuyện trên. Nhưng nếu nhìn rộng ra hơn một chút: việc mặc bikini nơi công cộng là đặc sản của những người trên thế giới, thì có lẽ những hành vi bẩn của kể trên là những đặc sản của người Việt. Thế giới gửi đến Việt Nam "món quà" của họ thì Việt Nam cũng gửi lại cho họ những gì thuần tuý nhất. Khi nào chúng ta thấy những chuyện ăn mặc, cách giao tiếp, và văn hoá nói chung của thế giới bắt đầu gần gũi với người Việt, thì khi đó những chuyện của người Việt cũng sẽ không còn đáng bàn nữa trên các diễn đàn, báo chí.

Có lúc tôi nhìn đơn giản hơn về mọi thứ vì cuộc sống của một đời người gói gọn trong mấy mươi năm. Trong khi đó người Việt đương lại sinh ra, lớn lên và tiếp ngộ kiến thức trong môi trường sinh hoạt cộng sản nghèo nàn so với loài người nói chung đã trải qua những kỷ nguyên biến đổi hình thái xã hội từ giàu, cho tới giàu hơn và giàu sụ cả về tinh thần lẫn vật chất thì trách móc, so sánh để làm gì. Sự khác biệt đến từ trong trứng nước mà.

Ce Phan

Mô hình giảng dạy ngoại ngữ ở Nhật Bản

Ở Nhật Bản, có nhiều trường ngoại ngữ gọi học viên của họ là "khách hàng" (client) và giáo viên là "người chỉ dẫn" (instructor)

Học viên đánh giá giáo viên của họ sau mỗi buổi học từ 1 sao (rất tệ) cho tới 5 sao (rất tốt). Theo đó, giáo viên cũng được hiểu là những "nhà thầu" (contractor) cho từng lớp học mà họ nhận và thù lao được tính theo số buổi mà học viên đăng ký học với họ. Trong những trường học như thế này, bộ phận tuyển sinh và tuyển dụng của họ được xem là nòng cốt của trường học và được nhận lương cố định và phải đảm bảo số lượng đăng ký lúc nào cũng cân bằng giữa client và instructor.

Đó là môi trường làm việc khắc nghiệt nhất mà tôi từng biết. Bởi vì giáo viên chỉ có thể nhận được mức thù lao khoảng 300.000d/tiết ( chưa trừ thuế) với lịch giảng được chọn (nhưng được "lựa" bởi học viên) và duy trì tối đa 6 tháng nếu họ không đạt mức 4,5 sao (theo đánh của học viên).

Để có được quyền sinh-sát đó, học viên trong lớp học one-to-one phải trả mức học phí khá đắt đỏ, khoảng 2-2.5 triệu đồng cho 1 tiết học.

Đây là một mô hình kiểu điển hình trong các trường ngoại ngữ tư nhân ở Nhật, nhiều nhất là ở Tokyo. Thật khó biết liệu đây có phải là mô hình giáo dục tốt hay không? Nhưng 2 đối tượng chính trong một lớp học là: giáo viên - học viên được "thị trường hoá" giống như cặp phạm trù căn bản "cung-cầu".

Theo cá nhân tôi, thì cách hiểu về giáo dục như vậy như một quả đấm thép vào quan niệm giáo dục có từ xa xưa tới giờ.

Câu hỏi còn lại là:

- Với học viên: có đáng phải trả khoản phí như vậy chỉ để chọn ra một giáo viên trong số giáo viên "hoàn toàn mới mẻ" (*) trong danh sách giáo viên không?

- Với giáo viên: Mặc dù được đánh giá cao-thấp bởi học viên, họ có cảm thấy trình độ chuyên môn của mình có còn được nhìn nhận bởi hội đồng giáo viên và những người có chuyên môn hay không? (**)

Nhìn một cách lạc quan hơn, sẽ có nhiều giáo viên được tuyển dụng hàng tháng và học viên sẽ hơn bao giờ hết biết rằng họ sẽ phải tự học nhiều hơn trước để tránh phải chi tiêu tốn kém để học ngoại ngữ nữa.
----------------------

(*) xét trên lý thuyết là người học luôn được chọn giáo viên dạy họ, nhưng với hệ thống giáo dục này, thời gian trụ lại của giáo viên ở mức 2-3 năm. Có nghĩa là trong hệ thống của họ, giao viên sẽ là luôn là yếu tố biến đổi.

(**) Một học viên muốn huỷ hoại sự nghiệp của giáo viên thì có thực hiện quá dễ dàng. Chỉ cần 1 sao liên tục trong vài buổi thì giáo viên đó cho dù trước đây có được đào tạo ở đâu, buổi hôm đó giảng dạy như thế nào cũng vô giá trị.

Với hệ thống giáo dục này, thì giáo viên không được quyền giải thích. Bởi vì họ được xem là "những nhà thầu". Họ không có cấp trên để xem xét, trước mặt họ chỉ có học viên.
----------------------
Ce Phan

Thứ Hai, 19 tháng 6, 2017

Trí thông minh theo kiểu Trung Quốc và Việt Nam

Tôi đọc được bài viết "Thế nào là 'thông minh theo kiểu Việt Nam và Trung Quốc" tại trang báo www.tintucvn.net và học được những ví dụ thú vị về những hành vi được xem là thông minh theo cách hiểu của một bộ phần người, nhưng lại là phần tín nhiệm thấp trong mắt những người khác.
------------

Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?

Nhiều người Việt Nam và Trung Quốc có cùng một suy nghĩ giống nhau, đó là hay cười nhạo người Tây phương ngu ngốc, không hiểu chuyện đời, “não không có nếp nhăn”, và bản thân họ lấy làm tự mãn. Vậy rốt cuộc thông minh theo kiểu người Việt Nam và Trung Quốc là như thế nào?

Gần đây, một kênh truyền thông New Zealand đã đăng một bài viết nói về “thông minh kiểu Trung Quốc” và nhận được sự chú ý của đông đảo người sử dụng internet. Tác giả bài viết tự nhận là người Hoa, đã nhận định rằng “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng trắng đen hay thị phi, không cần biết thật giả hay đúng sai, có sơ hở liền lách vào, có tiện nghi liền chiếm lấy. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng chính nghĩa hay tà ác, bất cứ lúc nào cũng có thể vì bảo hộ bản thân mình mà làm trái lương tâm. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là để cho người khác phải phó xuất và gặp nguy hiểm, còn bản thân mình những gì mười phần có lợi sẽ giành lấy hết. Kỳ thực, “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không nói đến thành tín, ức hiếp người thiện lương, chính là các giá trị đều đã đảo lộn, không xét đến quy tắc…

Nhiều người Việt có người thân là Việt Kiều ở Mỹ, có thể đã nghe câu chuyện về việc hàng hóa sau khi mua ở Mỹ có thể được trả và lấy lại tiền mà không cần phải giải thích lý do. Vì vậy, nhiều người khi chuẩn bị tham dự một sự kiện nào đó, liền đến “mua” một bộ quần áo, sau khi tham dự sự kiện xong rồi, lập tức mang trả lại quần áo để lấy tiền về.

Hệ thống bán hàng ở Mỹ còn có một chính sách đáng chú ý, gọi là Price Match. Với chính sách này, nếu bạn mua một sản phẩm sau đó chứng minh được sản phẩm này bán giá rẻ hơn giá tại cửa hàng nào khác, thì có thể được mua sản phẩm với mức giá tương đương mức giá mà bạn tìm thấy. Do vậy, có một số người, khi đi mua hàng với giá đắt hơn những nơi khác, họ không hề mặc cả, mà lại chọn những màu sắc hay kích cỡ (mà ở các cửa hàng khác không có), sau đó khi tìm được cửa hàng nào có mức giá rẻ hơn thì sẽ mang hóa đơn quay lại nơi mua hàng để được giảm giá.

Những người này dương dương tự đắc với hành vi của bản thân, đi đến đâu cũng tự cho rằng bản thân mình thông minh, thậm chí còn đặt câu hỏi sao những người khác quá “ngu ngốc”, không biết lợi dụng “kẽ hở” này.


Coi việc chiếm tiện nghi của người ta là “thông minh”, coi gian xảo là có “năng lực lớn”… mọi giá trị dường như đều đảo lộn.

Bài viết của tác giả người Hoa trên truyền thông New Zealand còn liên hệ đến tỷ phú Warren Buffett. Rất nhiều nhà đầu tư hỏi về tiêu chí chọn đầu tư cổ phiếu của ông Warren Buffett, và thông thường ông hay nhấn mạnh rằng ông rất coi trọng sự thành tín của giám đốc điều hành công ty, nếu không phải công ty làm ăn chân chính, ông nhất định sẽ không lựa chọn đầu tư. Với ông, lợi nhuận không phải là yếu tố hàng đầu, mà là chữ tín.

Một người Hoa đưa đứa con nhỏ mới 3 tuổi đến Mỹ du lịch và ở tại nhà người thân. Người nhà đã đưa cho người Hoa này một chiếc ghế ngồi ô tô dành cho trẻ nhỏ và nói: “Ở đây quy định trẻ nhỏ khi đi xe nhất định phải dùng loại ghế này, tôi đưa cho anh dùng, nhưng vì là ghế đi mượn, nên anh phải giữ gìn cẩn thận, vì chúng ta sẽ phải trả lại cho người ta.”Hai tuần sau khi không dùng xe ô tô nữa, chiếc ghế này đã được đem đến trả lại cửa hàng. Người bán hàng không hỏi lý do tại sao, chỉ đơn giản là đưa đủ số tiền cho người trả hàng. Người nhà liền tự hào nói: “Các cửa hàng ở Mỹ đều như vậy, nếu mua hàng trong vòng 2 tuần thì đều có thể mang hóa đơn đến và trả lại, do đó chúng tôi thường đến đây ‘mượn’ một số đồ đạc. Nhiều người Đại lục thậm chí còn mượn cả TV. Anh nói xem, người Mỹ có ngốc hay không chứ? Trả lại hàng vô điều kiện đúng là sơ hở quá lớn, vậy mà họ còn chẳng biết điều đó!”

Một năm sau, người Hoa này đến Nhật Bản, một số bạn bè đồng hương ở Nhật đã tiếp đón và dùng ô tô để đi lại. Người Hoa này hỏi: “Tokyo đất chật người đông, có phải là rất khó đỗ xe không?”

Đồng hương trả lời: “Không nghiêm trọng đến như vậy đâu, chính phủ quy định cần có chỗ để xe trước rồi sau đó mới được phép mua xe, vì vậy mà không có nhiều xe như anh nghĩ đâu.”

“Ồ, vậy tức là anh có một bãi đỗ xe riêng sao? Chắc là phải đắt đỏ đến mức cắt cổ có đúng không?”

“Anh nghĩ là ai cũng ngốc giống người Nhật Bản sao! Muốn mua xe thì trước tiên đi thuê một chỗ ở bãi đỗ xe, sau khi mua xe xong thì trả lại chỗ đó, vậy chẳng phải là vấn đề được giải quyết hay sao?”

Hai ngày sau, một số bạn bè người Nhật đến đưa người Hoa này đi chơi, họ đi bộ hoặc là đi bằng tàu điện ngầm. Những người bạn Nhật phân trần rằng: “Tokyo mua xe thì dễ, nhưng tìm chỗ đỗ xe thì không dễ dàng gì. Do đó, anh chịu khó đi tàu điện ngầm vậy nhé.”

Người Hoa này lập tức truyền cho anh ấy cách để giải quyết vấn đề. Không ngờ rằng anh ấy đã không “ngộ đạo” mà còn dửng dưng nói: “Nếu muốn lợi dụng sơ hở, thì có nhiều cách lắm. Ví dụ như mẹ tôi sống ở quê, nếu muốn thì có thể dùng hộ khẩu cũ là mua được xe. Nhưng thực tế thì tôi định cư ở Tokyo, không có chỗ đỗ xe mà lại mua xe, vậy thì những người hàng xóm sẽ nhìn tôi như thế nào? Lái xe đi làm, tôi phải đối diện với đồng nghiệp ra sao? Cấp trên và những người đàng hoàng sẽ không làm như vậy.”

Cơ chế trả lại hàng vô điều kiện ở Mỹ và những quy định đầy lỗ hổng ở Nhật, đều được xây dựng trên cơ sở “tín nhiệm”. Nếu sự “tín nhiệm” sụp đổ, thì xã hội cũng sẽ có thể sụp đổ. Do đó, ở xã hội Tây phương, người ta có thể tha thứ cho các chính trị gia làm sai, nhưng không thể tha thứ cho những chính trị gia nói dối.

Nếu như chúng ta “giả đổi thành thật, thật cũng giả”, mỗi người đều hư hư thực thực, thì toàn xã hội sẽ vận hành trên cơ sở “hoài nghi”. Tư duy ảnh hưởng đến hành vi, mà hành vi của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng rộng ra đến dịch vụ kinh doanh và vận hành xã hội.

Khi đi tàu điện ngầm tại Rome bạn sẽ phát hiện rằng có máy bán vé nhưng không có soát vé. Chắc hẳn bạn sẽ thấy lạ lắm phải không? Làm thế này làm sao kiểm soát được xem hành khách lên tàu có mua vé hay không? Vận hành tàu điện ngầm thế này chẳng phải sớm muộn gì cũng bị lỗ hay sao?

Đây chính là cách nghĩ quen thuộc của chúng ta, luôn liên tưởng mọi chuyện theo kiểu khôn vặt hoặc vì tham lợi nhỏ cho bản thân mình. Đối với người Ý mà nói, nếu chúng ta hỏi câu hỏi này thì thật kỳ lạ. Đi xe có thể không mua vé chăng? Đi xe làm sao có thể không mua vé cho được? Cách nghĩ, cách tư duy của hai bên quả có sự khác biệt lớn.

Nếu như bạn thực sự muốn biết có thể đi tàu mà không cần mua vé hay không, thì câu trả lời là có thể, hoàn toàn có thể lên tàu đi một vài trạm, nhưng phải đảm bảo không để cho giới quản lý ở Ý biết được, nếu biết họ nhất định sẽ phạt bạn. Và sau này nếu bị phạt nhiều lần, có thể tạo thành tiếng xấu ở nước ngoài, thật sự là cái được không bõ cho cái mất!

Xây dựng tín nhiệm không dễ, nhưng điều này lại thực sự quan trọng! Mức độ tín nhiệm lẫn nhau càng cao, thì quản lý sẽ càng nới lỏng hơn. Nếu như đi đúng đường, thì sẽ không sợ phải đi xa!

Hồng Ngọc

Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2017

Khi chúng ta 30 hãy nghĩ đến: lập thân, lập nghiệp và lập gia

Khi 30 tuổi, bạn đã có thể tùy theo bản lĩnh của mình mà chịu trách nhiệm cho những sự việc mình phải đảm đương, cũng như đã có thể tự mình xác định mục tiêu trong cuộc sống và phương hướng phát triển. Nói đơn giản, ở cái tuổi 30, bạn đã có thể thản nhiên mà đối mặt với hết thảy mọi thứ. Ba phương diện khái quát mà một người 30 tuổi đã có thể tạo lập cho chính mình, đó là lập thân, lập nghiệplập gia.

Lập thân hay chính là xác định phẩm cách và sự tu dưỡng bản thân, bao gồm ba phương diện: tu dưỡng tư tưởng, hàm dưỡng đạo đức và bồi dưỡng năng lực.

Tự mình biết vươn lên chính là căn bản của đạo lập thân, chớ vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà trông nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ, cũng đừng trông mong chạy vạy ở người khác, vì đó chẳng khác nào biểu hiện của sự mềm yếu nhu nhược. Lập thân đối với mỗi cá nhân thì yêu cầu tối thiểu nhất chính là đặt chân trong xã hội.

Lập nghiệp chính là tự mình xác lập sự nghiệp của bản thân. Người 30 tuổi ít nhất cũng đã phải có được công ăn việc làm tương đối ổn định. Lập nghiệp không những là phương thức mưu sinh mà còn là chuẩn bị hoàn thành trách nhiệm đối với xã hội.

Lập gia chính là xây dựng gia đình của riêng mình. Cạnh tranh trong xã hội hiện nay đang rất kịch liệt, nên các thanh niên thường hay trì hoãn chuyện hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, khi đã bước vào tuổi 30, việc kết hôn không còn là sớm nữa. Còn chuyện lập gia trước lập nghiệp sau hay lập gia sau lập nghiệp trước, đều là tùy thuộc vào bản thân mỗi người, cũng không quan trọng chuyện trước sau. Người thanh niên tất yếu phải có khả năng đảm đương trách nhiệm gia đình lẫn xã hội, thế nên hoàn thành sớm hẳn là tốt hơn.

Đối với người trẻ tuổi, tam thập nhi lập chính là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, giữa thực tế và kỳ vọng của bản thân chúng ta thường có khoảng cách rất lớn. Điều này là tất nhiên đối với trẻ em nước ta vốn luôn được cưng chiều khi gặp phải áp lực trong công việc. Đây là chuyện vốn rất thường tình.


Trích: Hành trình của cuộc đời (The sound of hope)

Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

Bài học muộn nhưng vẫn còn kịp: Tiền & Giá trị

Đúng ra bài học này nên được ưu tiên hơn tất cả ngay khi một đứa trẻ bắt đầu biết cầm đồng tiền trên tay. Bởi lẽ sự hiểu biết về tiền và giá trị cũng dễ hiểu như các bài học đầu đời khác như: học cách giữ vệ sinh, học cách tập thể dục, học sử dụng các dụng cụ trong gia đình.

Nhưng không may thay, người lớn vẫn né tránh việc tìm hiểu và truyền đạt lại cho con cái. Kết quả là, có nhiều thế hệ đang hiểu khá lệch lạc giữa tiền bạc & giá trị và cũng vì thế mà có nhiều chuyện tệ hại xảy ra xung quanh cuộc sống liên quan đến việc ứng xử thế nào với tiền bạc. Một phần trong đó, xét trên quan điểm cá nhân, tôi thấy người Việt đương đại đang "phản ứng" khá thường trực trước việc giữ vàng và ngoại tệ để bảo lưu tài sản của họ (1).

Để hiểu vấn đề này thêm cặn kẽ, chúng ta nên ôn lại lịch sử của tiền tệ một chút.

Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng kiến nhiều sự thay đổi trong mỗi giai đoạn cầm quyền của một thể chế nào đó. Đi liền với những thay đổi đó là sự thay đổi về tiền và những nhiêu khê do việc trao đổi mệnh giá đồng tiền mang lại. Nguyên nhân thay đổi có thể là do mục đích về thương mại, hoặc có thể là uy quyền cai trị của một chế độ mới khi họ muốn thâu tóm lại "phần giá trị" từ tiền bạc được cung cấp bởi giai đoạn cai trị trước đó.

Có khá nhiều ví dụ điển hình qua những lần thay đổi về tiền trong suốt chiều dài lịch sử được biên lại khá cụ thể qua các nghiên cứu (2). Nhưng vòng đời của tiền tệ đã kinh qua những chặng sau:

- Trao đổi trực tiếp bằng tài sản hữu hình (nhà cữa, ruộng đất, nô lệ, gia cầm, gia súc ...)
- Sử dụng các kim loại quý như: vàng, bạc, đồng ... để làm thước đo cho giá trị của hiện vật để trao đổi.
- Sử dụng tiền bằng giấy, nhựa ... để thuận tiện hơn cho việc trao đổi và nhưng vẫn được neo giá trị bằng kim loại quý (cụ thể là vàng) và tổng sản phẩm quốc nội.
- Tín dụng hiển thị bằng con số (tiền) tiền quy ước trong các tài khoản ngân hàng. Cũng tương tự như tiền, nhưng tín dụng có mức thanh khoản cao hơn, tiết kiệm được chi phí in tiền mặt và hạn chế nạn làm tiền giả, trốn thuế.


(Phần giải thích các vấn đề về tiền - Tài Dương)

Trên chỉ là những viện dẫn lại từng bước đi của tiền, nhưng cũng không cần thiết khi phải đi sâu hơn nếu ứng dụng vào một cá nhân trong đời sống thường nhật. Bên dưới đây mới là phần tôi muốn nhắc tới.

- Thứ nhất: Kiếm tiền cũng có nghĩa là chịu phi phối bởi tiền dù ít dù nhiều.

Bất kể bạn là ai: tu sĩ, vô sản dân, nhà văn, .... một khi bạn có nhu cầu cần đến tiền thì điều đầu tiên trên tất cả là bạn sẽ phải chịu ảnh hưởng trong quy luật của riêng nó. Đó là "tính trao đổi".

Điều để trao đổi để lấy tiền có thể là: sức lao động, vật chất hiện có, "cái vốn trời cho", .... và bất kể điều gì khác miễn là điều bạn có mà có người khác cần. Kể cả niềm tin!

Đó là những giá trị thật mà bạn phải đem lên "cân" để đổi lấy một điều khác mà bạn đang cần. Nhưng cũng có những xảo thuật, mà những người xấu áp dụng để đoạt được tiền từ người khác mà không phải thông qua giá trị khế ước công bằng giữa tiền-giá trị.

Chuyện vặt có thể thấy trong hành vi lạm dụng tiền là trộm, cướp. Cao hơn một tý là bán hàng giả mạo. Tinh vi hơn tý nữa là đầu cơ, tích trữ và thao túng thị trường. Nhưng bỉ ổi nhất đó là nạn tham nhũng và chủ đích bóp méo cán cân thương mại tiền-giá trị thông qua việc in tiền mà không cải thiện về kết quả sản xuất nội tại.

Như vậy có thể thấy, bất kỳ ai cũng sẽ chịu sự ảnh hưởng tích cực/tiêu cực từ bất kỳ sự kiện nào liên quan tới tiền bạc. Và, dù người lãnh đạo có trong sạch cỡ nào, nhưng nếu kém cỏi thì cũng ảnh hưởng đến túi tiền của bạn! Tiền của bạn sẽ tự động mất đi giá trị nếu mẫu số chung về năng suất lao động của đất nước bị giảm đi.
- Thứ hai: Có tiền rồi, giá trị nhận được sẽ là bao nhiêu?

Giai đoạn kiếm tiền đã có nhiều thứ cần nói đến rồi, nhưng đã có tiền rồi thì sao? Bạn có dùng nó đúng với giá trị của nó.

Tiêu tiền dễ lắm phải không nào? Không hẳn thế!

Nếu trong tủ đồ của bạn còn những chiếc váy chỉ mới dùng 1,2 lần dù mua đã lâu. Trên kệ sách có nhiều cuốn sách chỉ dùng làm trang trí. Chiếc đồng hồ, máy tính, điện thoại chỉ được dùng ở một chức năng nào đó mà bỏ qua những điều hay ho khác. ...
Bạn có quyền quyết định tài sản của mình! đương nhiên. Nhưng bạn đang lãng phí và có thể chẳng hiểu gì về tiền-giá trị. Điều đó cũng phần nào nói lên rằng bạn cũng không mấy hiểu về giá trị lao động và tài sản trước tiền của bạn. Xa hơn, bạn cũng đang góp phần làm tiêu cực đi giá trị của tiền tệ.

Trong một sản phẩm được làm ra giá trị của nó thường được tính nôm na là: chi phí sản xuất + giá trị sử dụng (hoặc giá trị niềm tin) mà người dùng có được. Tuy cách tính thực tế của mỗi nhà sản xuất khác nhau, cũng như cách từng doanh nghiệp sẽ định nghĩa khác nhau nhưng nếu bạn không sử dụng sản phẩm đó tới một ngưỡng kỳ vọng nhất định thì bạn đang lãng phí (tính theo mẫu số chung trên tổng người dùng)
Qua 2 phía mà cũng chính là 2 giai đoạn (kiếm tiền, tiêu tiền), bạn có thể thấy giá trị thật sự rất khó được bảo toàn do bên quản lý về tiền tệ, cũng như bên tham gia vào vòng tuần hoàn tiền đều có những tác động tiêu cực tới giá trị của nó. Hiện tượng thường trực mà tôi có đề cập trong phần mở đầu là có một bộ phận sẽ nắm giữ vàng hoặc ngoại tệ chỉ để bảo lưu tài sản của mình. Tôi nói bảo lưu thay vì nói đầu tư bởi vì để người giữ những tài sản như vậy để trở thành nhà đầu tư thì phải có thêm nhiều bước am hiểu nữa về loại tài sản đặc biệt này.

Chung quy lại: bài học căn bản và đơn giản nhất mà chúng ta nên dạy cho con nít là:
- Con nhận tiền đó, tại sao? Số tiền đó lớn hay nhỏ khi so với những gì đứa trẻ thể hiện?
- Con chi số tiền đó, tại sao? Điều con mua được nó quan trọng ra sao tới nhu cầu của con?

Ce Phan
-------
(1) - Tại sao người Việt giữ vàng? https://www.ft.com/content/83a29cdc-5cb9-11df-bd7e-00144feab49a
      - Tại sao ngoại tệ ở Việt Nam nhiều nhưng thiếu thanh khoản http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/kinh-te/Vietnam-is-not-short-of-foreign-currency-except-for-cash-settlement-NNguyen-07072010220253.html
(2) - Hành trình của Tiền Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử: https://vi.wikipedia.org/wiki/Tiền_Việt_Nam

Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017

"Cứu chữ" cho quan qua một bản đối chiếu ngữ pháp với một học trò lớp 12

Dư luận mấy ngày qua vẫn còn sục sôi khi biết một học sinh lớp 12 bị kỷ luật tại một trường học ở miền Tây Nam Bộ sau khi đăng mấy câu phê bình chất lượng phục vụ của một bệnh viện tuyến tỉnh. Sự việc còn tiến xa hơn khi nhà trường dựa vào sự kiện này để đánh giá hạnh kiểm của em trong học kỳ vừa rồi.

(Chụp màn hình về phần chia sẻ một em học sinh lớp 12 qua Facebook)


Bỏ qua những mặt tiêu cực về cách đánh giá một học sinh thông qua mấy dòng chia sẻ của em qua một trang mạng xã hội Facebook. Tôi nhìn thấy những nét sáng về văn phong trong cách mà em viết mấy dòng đó. Là một thầy giáo dạy tiếng Anh, nhưng vốn tiếng Việt của tôi cũng đủ đề phân tích ra điều gì đó trong cách viết của em khác biệt như thế nào trong một án văn phong chính thức trong một lá thư của cựu bộ trưởng bộ giáo dục Phạm Vũ Luận. 

Câu văn với ngữ pháp rất tệ của bộ trưởng Luận trong thư gửi giáo viên gửi cho giáo viên nhân ngày 21/11/2015 (ngày Nhà giáo Việt Nam). Không biết ông Luận được học hành thế nào mà viết một câu văn 121 chữ mà dấu phẩy, chữ "và" dùng tuỳ tiện vậy không biết.

"Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, đội ngũ thầy cô giáo, cán bộ quản lý giáo dục chúng ta tiếp tục phát huy truyền thống và những thành tích đã đạt được, kiên quyết khắc phục mọi hạn chế yếu kém, vượt qua mọi khó khăn thách thức, chủ động và sáng tạo tổ chức thực hiện đổi mới hoạt động chuyên môn và công tác quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà theo tinh thần Nghị quyết 29, đáp ứng sự mong đợi và xứng đáng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Nhân dân."

Hãy đọc phần bình luận của một em học sinh lớp 12 khi viết lời chê một bệnh viện ở miền Tây và dẫn đến việc em bị đánh giá hạnh kiểm "khá" ( không phải "tốt" như đại đa số học sinh khác)

“Nói thật, thái độ phục vụ của Bệnh viện đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười rất kém. Từ bác sĩ, nhân viên, y tá trong bệnh viện, nói chuyện nạt 1 nạt 2, làm như cha mẹ thiên hạ vậy, nên chấn chỉnh lại đi các ông bà. Làm nghề này nên coi trọng lại đạo đức của mình đi”.

===

So với ngữ văn của ông bộ trưởng Luận thì em này viết có nghề hơn. Một đoạn văn tương đối ổn về mặt văn phạm và nổi bật hơn rất nhiều so với những bình luận trên Facebook của nhiều bạn mà tôi biết.

Phân tích: 

- Câu văn 1: Câu tiêu đề của đoạn với từ vựng chức năng "Nói thật," đóng vai trò dẫn dắt ý và cho biết góc nhìn của quan điểm. Đây là thành tố mà nhiều người Việt khác gặp nhiều khó khăn khi viết câu/đoạn.

Tương tự: Những từ vựng chức năng như vậy cũng phổ biến trong ngữ văn Anh, như:
   + To tell (you) the truth,
   + It can be seen that,
   + It is recognised that,
      .....

Câu văn chính "thái độ phục vụ của bệnh viện Đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười rất kém" với đầy đủ chủ vị ngữ và đặc biệt là thông tin rất rõ ràng và tỉ mỉ. Em viết rõ "khu vực Đồng Tháp Mười" là thành phần bổ nghĩa (noun modifier) cho cụm danh từ của từ "bệnh viện Đa khoa". Cụm từ "Thái độ phục vụ của bệnh viện đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười" là cụm danh từ đóng vai trò làm chủ ngữ. Phần vị ngữ "rất kém" có đủ tính từ và phần bổ ngữ trong chỉ duy nhất 2 chữ.

- Câu văn thứ 2: Chức năng dẫn giải của câu văn này rất rõ ràng khi em đã đưa ra thông tin để giải thích cho câu chủ đề (câu số 1) mà em đưa ra.

Cụm từ mà em sử dụng trong câu này "nạt 1 nạt 2" gợi hình và ý rất nhiều.  Hơn nữa, câu văn này sử dụng các mệnh đề (clause) rất điêu luyện:

"Từ bác sĩ, nhân viên, y tá trong bệnh viện, nói chuyện nạt 1 nạt 2, làm như cha mẹ thiên hạ vậy, nên chấn chỉnh lại đi các ông bà"

Cách dùng dấu phẩy trong mệnh đề qua hệ (loại không xác định) này chuẩn xác. "Từ bác sĩ, nhân viên, y tá trong bệnh viên" là chủ từ chung cho lần lượt các vị ngữ đứng sau là ", nói chuyện nạt 1 nạt 2, làm như cha mẹ người ta vậy, nên chấn chỉnh lại đi các ông bà" với đầy đủ động từ và tân ngữ.

Em dùng kiểu câu như trên rất hợp lý vì là câu dẫn giải nên phải đầu đủ, chi tiết.

- Câu văn thứ 3: "Làm nghề này nên coi trọng lại đạo đức của mình đi” là kiểu câu đóng đoạn điển hình.

Có 3 loại mà những người viết văn chuyên nghiệp hay dùng là: nhượng bộ (concession), tóm lược (summary) và gợi ý (suggestion). Ở trên, em chọn loại cú pháp thứ 3. Loại này cũng khá điển hình cho đoạn văn phàn nàn, tranh luận (argument).

Tóm lại, qua những cú pháp mà em học sinh này sử dụng thì tôi tin rằng khi em ở vào độ tuổi của ông Nhạ thì em có thể là "bậc thầy" của ông về ngữ pháp tiếng Việt. Em cũng chứng tỏ rằng em là người có ăn học đàng hoàng và có trình độ văn hoá nhất định trong cách ứng xử phản biện của trí thức.

Tôi mơ ước có một cô con gái có những nét văn chương như em có ở hiện tại khi con tôi bằng tuổi em.


Ce Phan