Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

Làm gì tiếp theo để có một nền giáo dục nhân văn và hiện đại


Một nền giáo dục dạy con người biết ước mơ và dấng thân để đạt được mục tiêu của cuộc đời liệu có phải là vọng tưởng? Kiến thiết một nền giáo dục nhân văn và hướng tới khả năng thích nghi cao cho những biến đổi của cuộc sống hiện đại chính là bước tiếp theo của thế hệ Việt Nam 2.0 (1) kể từ người Pháp mang nền giáo dục phương Tây du nhập vào Việt Nam sau năm 1858.


Trường học do người Pháp mở ra vào đầu thế kỷ 19 đã tạo ra thế hệ tinh hoa đầu tiên của Việt Nam

Một ví dụ cho những ước mơ còn dang dở

Nếu xem ước mơ của một học trò chính là kim chỉ nan, thì ngành giáo dục phải làm sao thay đổi để có thể hỗ trợ biến ước mơ đó thành sự thật.

Học trò thỉnh thoảng mới nói về ước mơ, mà mỗi lần nói thì mọi người chỉ nghe ở mức độ tham khảo chứ chưa xem đó chính là "phẩm chất" thực sự của người nói. Và ngược lại các em không được dạy và thúc đẩy để tìm kiếm niềm đam mê nên ước mơ của em chủ dừng lại là "bác sĩ", "kỹ sư", "phi công" ... các em phải liên tục trả lời nhiều câu hỏi nữa để xác định xem tại sao mình đang được thôi thúc để làm một công việc

Thực ra làm kỹ sư, bác sĩ, cô giáo ... thì chỉ sau 22 tuổi là có thể học xong đại học và làm được rồi. Liệu trước đó các em có cần xác định rõ hơn là các em cần cứu bao nhiêu người trong đời không? Các em cần xây bao nhiêu công trình đẹp không? Các em dạy bao nhiêu học trò giỏi trong đời không ...

Và sẽ như thế nào nếu các em sống mòn, hoặc đạt được ước mơ quá sớm? Các em sẽ làm gì tiếp với phần đời còn lại? Có gì khác nhau giữa mục tiêu và ước mơ không?

Ví dụ:
- Học trò: em ước mơ làm bác sĩ?
- Thầy giáo: tại sao?
- Học trò: em muốn chữa bệnh cứu người, em rất thương người bệnh, ví dụ như mẹ em vậy đó!
- Thầy giáo: vậy em có nghĩ rằng em có thể cứu giúp được bao nhiều người trong đời không?
- Học trò: dạ chưa? Em phải nghĩ điều đó ngay bây giờ sao?
- Thầy giáo: đúng rồi em. Nếu em mốn cứu hàng trăm người thì em sẽ học để trở thành bác sĩ giỏi. Nếu em muốn cứu hàng nghìn, hàng vạn người thì em phải ráng để làm một giám đốc bệnh viện lớn. Nếu em muốn cứu hàng triệu người thì em phải ráng để thành bộ trưởng bộ y tế. Còn nếu em muốn cứu hàng triệu, hàng chục triệu người thì em phải là khoa học gia nghiên cứu về một giải pháp y học nào đó (vaccine chẳng hạn). Nếu em muốn cứu nhiều người hơn nữa thì em phải ước mơ để làm chính trị gia, hoặc một doanh nhân giàu có .... Nếu muốn cứu nhiều người và rất nhiều người nữa thì em nên là một đức giáo hoàng, một lạc ma, ..... Như vậy, từ nay về sau em hãy từ từ mà suy nghĩ thêm nhé!
- Học trò: dạ, em biết rồi thưa thầy. Vậy thầy ước mơ làm gì?
- Thầy giáo: thầy ước mơ là ít nhất trong đời thầy có vinh dự được dạy một học trò có ước mơ lớn và dấng thân đến cuối đời để đạt được điều đó. Thầy đang rất trông đợi người đó là em.

Là cha mẹ bạn có muốn con cái được hưởng một nền giáo dục như vậy không? Hay chỉ muốn con mình quanh quẩn với những ước mơ mà nói ra để nghe cho vui thôi! Lựa chọn đó nằm ở bạn. Bạn có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nó.

Thời gian trải nghiệm là chìa khóa để mang đến một nền giáo dục hiện đại, cấp tiến

Một khi ước mơ đến được hình thành cho các em ở độ tuổi nhỏ thì các em sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trong suốt quá trình học tập và trưởng thành về nhận thức. Trong đó, một bước quan trọng chính là sự trợ giúp để các em có thể hình thành một bức tranh chung về những điều mà các em cần làm, thực hành và trải nghiệm trên lộ trình đến với ước mơ.



Mỗi người có một ước mơ và mong muốn khác nhau trong đời. 

Nền giáo dục cộng đồng tuy không bao biện cho lối tư duy và đào tạo những con người có chung suy nghĩ, có chung một tiêu phấn đấu, nhưng đó quả thực là rào cản rất lớn cho những hướng đi khác biệt. Vì thế cá nhân hóa giáo dục là một yêu cầu không thể trì hoãn để có thể phù hợp cho những thay đổi trong thời gian tới. Chặng đường kể từ lúc các em biết rung cảm với điều gì sau đó thấy hứng thú hơn với bất kỳ một môn học nào chính là lúc các em sẽ rẽ nhánh và đi theo lộ trình Được-Giáo-Dục cộng với Tự-Học một cách hoàn toàn riêng biệt.

Chắc chắn không cần đến 12 năm trong giáo dục phổ thông để hướng học sinh tới sự phát triển toàn diện và 4 năm nữa để một học sinh tú tài chọn ngành nghề trước khi bắt đầu làm việc. Ở khía cạnh thực tế, chỉ cần một vài năm để nghe-nói-đọc-viết thành thạo một ngôn ngữ, sau đó là các quy tắc căn bản về tính toán và suy luận logic, sau đó là quãng thời gian học trên chính những gì đang diễn ra xung quanh các em.

Những kiến thức chưa cần thiết sẽ được giảng dạy độc lập và các em có đăng ký học mỗi khi cần đến. Sự thành công của những người đi trước dựa trên nền tảng của việc học và nghiên cứu dựa trên niềm đam mê đã được thống kê bằng một con số rất thực là 10.000 giờ (Tương đương khoảng 3.5 năm với mỗi ngày dành ra 8 giờ để trải nghiệm trên chính ước mơ của mình). Như vậy, thời gian để một người học bắt đầu tìm hiểu những mối quan tâm riêng biệt sẽ sớm hơn nhiều so với cách giáo dục cộng đồng mà nhiều nước đang vận hành.

Thời thế đã đổi thay, nền giáo dục buộc phải thay đổi

Hơn nữa, sự thay đổi trong vai trò của lực lượng sản xuất (trí tuệ của con người), tư liệu sản xuất và cả quan hệ sản xuất đã biến đổi rất nhiều so với thời điểm mà lý thuyết triết học về duy vật biện chứng hình thành để tạo nên một trật tự thế giới như bây giờ. Một thế giới mới khi mà sự phát triển nhanh tột độ của khoa học công nghệ, sự chia sẻ những khác biệt trong tư duy đã hướng tới một giai đoạn "quốc thể hóa" ở từng bộ phận có sự phát triển độc lập thay cho quá trình "toàn cầu hóa" (globalization) (2) đã tồn tại và quyết định sức mạnh của một chủ thể bị phụ thuộc, mối quan hệ sản xuất của một quốc gia và những đối tác xung quanh.

Những giáo sư hàng đầu của Mỹ như Larry Katz, Claudia Goldin ... thì luôn phải suy nghĩ cách tiếp cận cho một giai đoạn giáo dục tiếp theo của nước Mỹ. Trong cuốn sách mới đây có tên là 'Cuộc chạy đua giữa giáo dục và công nghệ' (The Race Between Education and Technology) các giáo sư đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thay đổi trong cách giáo dục để làm sao có thể 'thích nghi' được với những tiến bộ đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt là phải bắt kịp với tốc độc ảnh hưởng của công nghệ. Bởi vì khoảng cách giữa trình độ của một người có kinh nghiệm làm việc và một sinh viên tốt nghiệp ngày càng lớn do sự thay đổi liên tục của các tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong việc xây dựng các hệ thống và quy trình được đúc kết từ kinh nghiệm đã trải qua. 

Ví dụ: Nước Mỹ chỉ mới trải qua 100 năm phát triển trong ngành giáo dục, nhưng họ đã luôn dẫn đầu thế giới học thuật trong chừng ấy năm qua. Nhưng chính trung tâm của sự phát triển này đã và đang đặt dưới áp lực lớn cho sự thay đổi để tiếp tục duy trì sự dẫn đầu của nước Mỹ trong mọi thành phần của nền kinh tế. Và đó cũng chính là yêu cầu đặt ra cho những điều căn bản như: thị trường lao động nội địa, những công nghệ chi phối sản xuất, sự dịch chuyển của thương mại thế giới ... cũng chính là câu hỏi cho bất kỳ một đời tổng thống nào. Tổng thống thứ 44 của Mỹ là Barrack Obama, đã kêu gọi sáng tạo ngay từ những năm đầu tiên trong 8 năm tại vị của ông để kêu phát triển cho một nền kinh tế sáng tạo để tiếp tục duy trì vị thế của Mỹ. Công nghệ Cracking dầu mỏ từ đá phiến chính là "công cụ cứu tinh" cho suốt nhiệm kỳ TT Obama để nước Mỹ hạn chế sự phụ thuộc vào Nga và Trung Đông Á và bị ít rủi ro hơn về khủng khoảng năng lượng toàn đầu. Nhưng kỹ thuật đó không phải được tạo ra trong những năm Obama lãnh đạo, mà nó được nghiên cứu năm 1986 do tổng thống Ronald Reagan thúc đẩy sau cuộc khủng hoảng dầu thô năm 1973 làm nền kinh tế của Mỹ phụ thuộc vào các khối kinh tế khác.

Trong khi, các nước phát triển đang bàn về nền giáo dục mang tính cá nhân (Personalized Education) để có thể tạo ra một bước chuyển mới trong nền giáo dục toàn cầu và cung cấp một lực lượng sản xuất cao cấp cho tương lai, thì hầu hết các nước lẫn loay hoay với cải tiến giáo dục mang tính quốc hữu hóa, và cộng đồng hóa. Nghĩa là, ở Việt Nam, người ta vẫn quan tâm tới giáo dục trường học công lập và dân lập tập trung với các chương trình khép kín được quy định bởi bộ giáo dục, trong khi đó, nhu cầu về "tự giáo dục" và theo hướng kết hợp tiêu chuẩn đào tạo thông qua hệ thống máy tính tại nhà với sự hướng dẫn của những chuyên gia về giáo dục đang được chuyển dịch và đầu tư mạnh mẽ ở các nước phát triển.

Như vậy, với quyền được theo đuổi đam mê khi còn trẻ và được thúc đẩy một nền giáo dục tiên tiến chính là câu hỏi cho những nền kinh tế mới nổi như Việt Nam và các nước Châu Á có mô hình giáo dục tương tự. Đó không chỉ là những hướng đi để vực dậy một nền kinh tế đang trên đà suy thoái, mà đó còn là một yêu cầu bắt buộc để phục vụ cho mong muốn của con người tại bất kỳ quốc gia nào.


Tác giả: Ce Phan



Chú thích:

(1) Thế hệ 1.0 là thế hệ có được một nền giáo dục cởi mở, tiếp cận được với nền văn minh của thế giới. Giai đoạn của từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”. Thế hệ 2.0 là thế hệ được kỳ vọng là sẽ được tận hưởng những thay đổi từ khoa học công nghệ và một cách tiếp cận mới trong giáo dục sau một thời gian dài bị tụt hậu.

(2) Đọc phần trích dẫn từ phân tích của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

"Trong một bài tiểu luận kinh tế chính trị trên tờ VĂN LANG, Tập San Nghiên Cứu Việt Học do nhà xuất bản Văn Nghệ và nhà văn Nguyễn Mộng Giác cùng một số thân hữu chủ trương thời ấy, người viết này có viết như sau về ngoại thương:

“Chẳng hạn như khi một người Mỹ mua chiếc xe hiệu Pontiac kiểu Le Mans của hãng G.M. (trị giả khoảng 20 ngàn Mỹ kim tại Hoa Kỳ [theo thời giá năm 1991]), họ thực sự trả sáu ngàn cho người Đại Hàn (tiền nhân công ráp chế), ba ngàn rưỡi cho người Nhật (cơ phận và phụ tùng căn bản gồm đầu máy, trục lái và dụng cụ điện tử), một ngàn rưỡi cho người Đức (tiền thực hiện kiểu xe), 800 cho người Đài Loan, Tân Gia Ba (Singapore) và Nhật Bản (phụ tùng lặt vặt), 500 cho người Anh (phí tổn quảng cáo và chiêu mại), khoảng 100 cho người Ái Nhĩ Lan (Ireland) và Barbados (tiền khai thác điện toán). Còn lại? Chỉ có khoảng tám ngàn Mỹ Kim mới thật sự lọt vào tay người Mỹ, từ các quản trị gia ở trên tới các công nhân ở dưới và sau cùng là cổ đông (những người chủ của các cổ phần của hãng G.M.), trong số đó, có khá nhiều người không phải là quốc tịch Mỹ.”

Phần kế toán trên nói đến “quốc tịch mơ hồ” của chiếc xe để kết luận là “Với sự thay đổi trên đây, tương quan giữa chủ quyền quốc gia và quyền lợi kinh tế sẽ có lúc không đi đôi với nhau.”

Bài tiểu luận gần 15 ngàn chữ qua 30 trang, có đề tựa là “Từ Kinh Tế Cộng Sản sang Kinh Tế Tự Do, nhu cầu của một Chủ Nghĩa Quốc Gia Mới trong một Thế Giới Liên Lập,” với nội dung cảnh báo Việt Nam rằng sức ly tâm của phát triển kinh tế sẽ đe dọa trật tự xã hội và sự thuần nhất quốc gia. Một trong các yếu tố giải thích nguy cơ ấy là kinh tế càng phát triển theo thế hội nhập với quốc tế thì thành quả của phát triển càng phân phối không đều. Tại thành thị, một số người làm giàu nhanh nhất, vượt xa các thành phần còn lại, với nếp sống hướng ngoại khác hẳn người dân còm cõi tại nông thôn, mà nhiều thành phần xã hội cũng không được hưởng kết quả phát triển và chẳng theo kịp trào lưu hội nhập kinh tế vào một thế giới liên lập (interdependent – thời ấy chữ “toàn cầu hóa” chưa mấy phổ biến).

Khi ấy, chủ quyền quốc gia sẽ là gì và chủ nghĩa quốc gia dân tộc là gì?"

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

Cá nhân hóa giáo dục- một yêu cầu bắt buộc từ cuộc sống

Kiến thức được truyền đạt như thế nào trong tương lai?

Chắc hẳn mọi người sẽ nghĩ ngay tới nhà giáo và hệ thống giáo dục sẽ đảm nhận vai trò trên. Nếu như chỉ nhìn vào cách mà các nhà sư phạm đã làm được trong hệ thống giáo dục hiện tại thì có thể góc nhìn sẽ bị giới hạn khá nhiều trong xu hướng giáo dục mà con người hướng đến hiện nay và bối cảnh mà Việt Nam đang trải qua với nền giáo dục khá lạc hậu của mình.

Bài viết sẽ cố gắng định lượng rõ ràng nhất có thể về vai trò của người thầy trong những năm tới khi mà Việt Nam còn bì bõm trong vùng trũng của nền giáo dục của thế giới, trong khi những nền giáo dục khác đã  bắt đầu áp dụng hướng đi mới sau khi đã tích lũy đủ lượng và chất trong thời gian khá dài kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1914 để dẫn tới một cuộc cách mạng công nghiệp mà nó vẫn còn ảnh hưởng cho tới ngày nay sau hơn 100 năm.

Sự 'quá tải' về thông tin và các phát minh mới

Nền giáo dục ở những nền kinh tế mở luôn đặt dưới áp lực trong việc chuyển tải các thông điệp và các bài học một cách liên tục, cấp tiến trong một xã hội công nghệ thông tin (IT Society) do đó luôn có một khoảng cách giữa kiến thức trong các nghiên cứu, phát minh mới và những gì đã truyền tải trong hệ thống giáo dục đại chúng.

Ước tính mỗi ngày trong một lĩnh vực có hơn 10.000 nghiên cứu được công bố (năm 2015) và khi internet mới bùng phát vào năm 2003 thì có hơn 170 terabytes dữ liệu được chia sẻ trực tuyến (1 terabye ước tính bằng khoảng 40,25 triệu tờ giấy A4 viết các thông tin vào đó). Ngày nay, con số đó còn tăng theo cấp số nhân đến mức tính toán cho việc thiết lập hệ thống máy chủ đề lưu trữ thông tin thông minh luôn là ưu tiên hàng đầu của những hảng công nghệ như Google và Facebook.

(Nhiều tổ chức giáo dục ở nước ngoài đã 'vận động' nhiều năm qua để hướng đến sự thay đổi để không bị lỗi thời so với sự phát triển bên ngoài, hình ảnh chụp từ một bài học có tên là "Information overload" trong một sách học IELTS)


Những mô hình giáo dục mới hoặc các học viện- những nơi tiếp cận gần nhất với kiến thức tân thời. Nơi mà người thầy cũng chính là những nhà khoa học. Hệ thống giáo dục như vậy được hình dung như là những "chiếc thuyền có gắn động cơ" để chuyển tài kiến thức nhanh nhất có thể. Nhưng liệu còn đó điều gì đáng nói và khoảng trống còn sót lại của chính mô hình này là gì và nền giáo dục đại chúng sẽ phải như thế nào trong tương lai là một câu hỏi lớn.

'Lệch vai' trong vai trò phát minh và truyền tải thông điệp

Sẽ như thế nào khi các nhà khoa học phải đóng vai làm thầy giáo dạy các môn khoa học tự nhiên và khi mà các nhà văn, nhà thơ dạy về văn học, ngôn ngữ!? Xã hội đang thiếu vắng một thế hệ nhà giáo có khả năng cảm thụ và truyển tải kiến thức một cách nhanh chóng những gì diễn ra bên ngoài thực tế và hiểu biết những sự dịch chuyển của nền văn minh của nhân loại. Trong khi đó, các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ liệu có nên lùi lại để dìu dắt và giải thích cho mọi người rằng họ đang làm gì?

Tuổi đời của nhà khoa học thường khá ngắn ngủi và nhiều khi cả đời của họ chỉ kịp đặt nền móng cho một hướng nghiên cứu nào đó. Ví dụ: tiến sĩ Yoshinori Ohsumi đã dành ra 30 năm trong cuộc đời của ông để nghiên cứu về cơ chế tự thực bào (autophagy) và vừa nhận được giải thưởng Nobel trong lĩnh vực y học năm 2016. Đó mới chỉ là nghiên cứu cơ bản và còn phải cần thêm nhiều năm nữa để tiếp tục tiến hành những bước tiếp theo trước khi biến nó thành một bước ứng dụng nào đó. Liệu có nên trông đợi ông quay trở lại các trường Đại học để giải thích và giảng giải về công trình của ông? Hay tốt hơn hết là ông nên tiếp tục với nhóm nghiên cứu của mình và tìm cách thúc đẩy sự kết hợp liên ngành để mang tới sự thay đổi lớn hơn trong lĩnh vực y khoa trong tương lai. Liệu chúng ta có trông đợi GS. Ngô Bảo Châu quay trở lại với các chương trình giảng dạy môn toán để giải thích về bổ đề cơ bản Langlands hay như thế nào?

Nền giáo dục hiện tại đang phải trông cậy nhóm tinh hoa này (elites) quay trở lại và giải thích những điều mà mình vừa nghiên cứu được. Khoảng trống giữa nghiên cứu khoa học, những phát minh mới sẽ ngày càng có khoảng cách lớn hơn với nền giáo dục cộng đồng. Tốc độ nghiên cứu, cách làm việc và tư duy độc lập giúp các nhà sáng tạo liên tục tạo ra những cái mới trong khi đó nền giáo dục đi sau đó lại hướng đến cách giảng dạy giống nhau và luôn mong muốn có một chương trình chung và thống nhất trong một cộng đồng người.

Ví dụ nào cho dễ hiểu về những thiếu xót trầm trọng của nền giáo dục đương thời

Trong Video này, tác giả giải thích sự trị trệ của hệ thống giáo dục trên thế giới. Xem và hãy nhìn về Việt Nam để thấy chúng ta tư duy trì trệ và bảo thủ như thế nào so với các nước khác, và so với yêu cầu thực sự của xã hội trong tương lai gần.



Nhìn lại Việt Nam với quá trình cải cách giáo dục và mãi loay hoay với bài toán làm thế nào để cải thiện được cách giảng dạy để có thể "cung cấp" đủ cho "nhu cầu" của sự phát triển. Giá mà bộ giáo dục không làm gì hết trong nền giáo dục Việt Nam trong bao nhiêu năm qua và để cho khối giáo dục tư nhân có nhiều điều kiện phát triển thì chắc hẳn diện mạo giáo dục đã tốt hơn nhiều rồi.

Như vậy, người thầy trong tương lai sẽ hóa vai như thế nào để tiếp tục được xem là "người lái đò" chở thế hệ trẻ tới kiến thức và nền văn minh của nhân loại?

Năng lực của nhà giáo trong tương lai

Thầy giáo của tương lai sẽ là những người có khả năng tổng hợp tốt những xu hướng đang diễn ra trong thời điểm hiện tại cũng như biết cách xây dựng một hệ thống bài giảng ngay tức thì và truyền đạt thông qua những công cụ mới chứ không phải là cách bám theo những cuốn sách giáo khoa sơ cứng được biên soạn phổ thông của nền giáo dục "mang tính địa phương" và như những gì chúng ta đã áp dụng cả mấy trăm năm qua.

Chính vì sự phân hoá trong xu hướng của sự phát triển biến kiến thức phổ thông ngày càng đồ sộ hơn và bắt buộc một nền giáo dục mới có khả năng sàn lọc thông minh những gì sẽ đưa vào dạy học và hệ thống tiêu chuẩn giáo dục được cập nhật mới liên tục. Rồi sẽ nhanh chóng tiến tới giai đoạn mà sách giáo khoa chỉ còn là những từ khóa cô dọng nhất về những gì diễn ra bên ngoài xã hội và chắc hẳn một người thầy với đầy đủ phẩm nhất mới mới có đủ khả năng truyền tải hết những bài học để tạo ra một thế hệ kế thừa cho sự phát triển của nhân loại.

Sẽ cần có bao nhiêu người thầy như vậy nữa cho sự phát triển khi mà nhu cầu học thuật ngày càng chuyên biệt hoá không chỉ ở cấp học lớn mà còn là nhu cầu cấp thiết hơn ở cac cấp học nhỏ hơn. Và chính giáo dục sẽ phải thích ứng để còn được định nghĩa là một phần trong các bộ phận phát triển và chuyển giao kiến kiến thức của nhân loại.

Cá nhân hóa giáo dục- một yêu cầu bắt buộc từ cuộc sống

Một mô hình giáo dục mang tính cá nhân là điều không thể né tránh trong tương lai gần. Khi
mà người hoc, nhà giáo và phụ huynh sẽ cũng chung tay xây dựng một lộ trình học tập trên sự diễn đạt của của một hệ thống giáo dục giàu tính tương hỗ và áp dụng khoa học công nghệ để giảm tải quá trình tìm kiếm kiến thức phù hợp và quy trình đánh giá mới.

Khác với Việt Nam - nơi mà nghiên cứu đều phải phù hợp với những gì đã được vạch ra từ trước hoặc đã được quy hoạch. Trái lại, ở châu Âu và Mỹ là xứ sở mà những phát minh mới sẽ làm thay đổi xã hội và mọi thứ sẽ thay đổi theo nó. Tất cả mọi thành phần trong xã hội sẽ tái cấu trúc, sẽ phải thay đổi cho một mô hình phát triển mới.

Hãy thử làm vài phép so sánh để thấy được sự phát triển vượt bậc của thế giới bên ngoài chênh lệch thế nào đối với nền giáo dục hiện tại. Sự lạc hậu và trì trệ của nền giáo dục đương thời như thế nào để thấy được cách làm giáo dục hơn bao giờ hết phải thay đổi trong yêu cầu cấp thiết nhất trong tương lai gần.

(Cuộc sống đã thay đổi quá nhiều trong khi mô hình giáo dục vẫn mang tính "cộng đồng" như cách đây 300 năm về trước)

Tác giả: Ce Phan


Ce Phan, tác giả của bài báo, nhà sáng lập của CEP Education, đang miệt mài xây dựng một chương trình học tiếng Anh hướng tới giảng dạy tiếng Anh, thúc đẩy quá trình hiểu biết ngoại ngữ để giúp người Việt nhanh chóng tiếp cận với nền tri thức của thế giới.