Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2016

Xuống đường vì Donald Trump

Tôi cũng bị cuốn theo dư luận khá nhiều trong thời gian qua khi phần đông người Việt có vẻ 'cười cợt' sự thành công của Donald Trump trong kỳ bầu cử tổng thống Mỹ 2016. Chia sẻ lại một câu chuyện cười mà tôi tự đặt tên là "Donald Jump" - lấy từ nội dung gốc của một bài đăng trên Facebook cùng ngày với hàng vạn lượt chia sẻ và bình luận. Đó là quả một sự khờ khệch của dư luận bị dẫn dắt bởi truyền thông.

Đọc báo chí Việt Nam nói về những người biểu tình xuống đường vì thể hiện sự không đồng tình trong chính sách của ông Trump. Có vẻ như góc nhìn trong các video tư liệu không đủ rộng đến biết số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tối đoán là thiểu số vì với nghiệp vụ lấy hình phóng sự- yếu tố số đông và mới lạ lúc nào cũng được lồng vào nhau.

Tôi đặt cái tựa đề: "Xuống đường vì Donald Trump" không phải là sự phản đối mà chính là sự ngưỡng mộ của tôi đến giờ phút này mặc dầu cách đây ít hôm tôi đã hoàn toàn tin rằng ông sẽ thất bại vì lối tranh cử khá chợ búa của ông khi đả kích bà Hillary và các chính sách đối ngoại của nhiệm kỳ trước một cách thậm tệ. Tôi có lẽ sẽ xuống đường để biết một Donald Trump bằng da bằng thịt như thế nào và để biết một kịch sĩ dạng siêu hạng như ông sẽ diễn một vở kịch trong thế giới công nghệ siêu thực này hay tới đâu. Tôi rất trông đợi để xem những ngày đầu làm việc của ông với vai diễn một tổng thống của Hoa Kỳ. Một điều khác nữa là ông sẽ xóa vai diễn doanh nhân đã đeo đuổi ông mấy mươi năm qua như thế nào trong từng màn diễn trước quốc nội và cả ngoại quốc như thế nào.

Tôi cũng có thể cảm nhận phần nào cái hay trong lối viết phân tích rất tài hoa của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa khi nói về sự kiện Donald Trump thắng cử. Và rằng, những nhóm người kia xuống đường biểu tình vì chính họ thấy tiếc nuối vì đã không bầu chọn cho Donald Trump như những gì hiện thực siêu thực về ánh bình minh mà Donald Trump mang tới cho đại chúng.

Tác giả: Ce Phan

Đọc bài văn trào phúng chính luận của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa

---------------------------------------------------------------------------------------------------

Khi Kịch Sĩ Nhập Vai


Donald Trump diễn xuất giỏi, bây giờ mới sống và làm thật!



Chúng ta vừa chứng kiến một bi hài kịch chính trị của Hoa Kỳ, khi tỷ phú Donald Trump bất ngờ thắng cử trước sự bàng hoàng của đa số - kể cả cử tri đã dồn phiếu cho ông. Sau này, giới nghiên cứu sẽ tìm hiểu về các lý do, giới chính trị thì nghĩ ngay tới nhiệm kỳ đầu của Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ.

Vì lãng tai, người viết chẳng sợ súng nên xin có vài ý kiến ba xu về hiện tượng này.

Donald Trump là người có ma lực thuyết phục, là đức tính trời cho. Ông thuyết phục người ta tin vào điều ông nói mà khỏi kiểm chứng - và cũng chẳng cần kiểm chứng. Với đặc tính thiên phú ấy, ông còn là một người giỏi diễn xuất. Nói cho gọn, Donald Trump là kịch sĩ. Điều này chẳng bất ngờ vì ông có show truyền hình của mình. Thứ ba, là người cực kỳ thông minh, Trump cảm nhận được tâm lý quần chúng, hay khán giả, nếu ta nghĩ tới sân khấu kịch nghệ.

Là kịch sĩ, ông không sống với kịch bản do ai đó soạn thảo, ông cứ nhìn xuống cử tọa rồi theo đó mà diễn cho hợp ý khán giả. Các chính khách hay thầy giáo có tài đều phải như vậy: tùy phản ứng cử tọa mà chuyển đạt thông tin, chứ không chúi mũi vào diễn văn hay bài giảng mà độc thoại, nói một mình, cho mình.

Ma lực thuyết phục là lợi thế được Donald Trump tận dụng, để thuyết phục cử tọa hay cử tri, rằng ông là “người của họ”.

Về chính trị thì đấy là nghệ thuật mị dân, được gọi lịch sự là “đại chúng”. Cứ theo ý đám đông mà nói, dù nói ra nhiều điều mâu thuẫn. Cũng về chính trị, hay triết lý chính trị, Donald Trump không có chủ thuyết. Chủ thuyết là chuyện tính sau, may lắm thì… ông đang tính.

Nhờ tài năng đó, Donald Trump nói ra những điều mà rất nhiều người đang nghĩ trong đầu. Ông nói như chẳng suy nghĩ và xúc phạm thiên hạ mà không bao giờ xin lỗi, hoặc cải chính. Chính là nét sống sượng đôi khi vô giáo dục ấy lại càng được cử tọa thấy rằng ông nói thật. Ông đóng kịch là người nói thật và nói lớn cảm nghĩ thầm kín của nhiều người. Mục tiêu là dù chẳng có tổ chức hay phe phái gì trong đảng Cộng Hòa, ông vẫn phải có quần chúng.

Lực lượng quần chúng đó, hơn là tài mạt sát hay tật trâng tráo, mới giúp ông loại bỏ các đối thủ có thế giá trong đảng. Họ thua ông không vì họ chẳng dám chửi, mà vì họ không nhìn ra sự bất mãn của một số quần chúng đông đảo trong đảng. Tức là đảng Cộng Hòa có vấn đề mà các bậc trưởng thượng, thành phần ưu tú có ảnh hưởng trong đảng, lại chẳng nhìn ra.

Truyền thông chính mạch, có tinh thần thiên tả và thiên vị, cũng không làm nổi bật một sự kiện thống kê: mỗi khi Trump xuất hiện, người ta đông đảo tham dự với nhiệt tình, đông đảo và say mê hơn quần chúng tham gia các cuộc vận động của bà Hillary Clinton. Dù có quê kệch thì nhiệt tình đó vẫn là thực tế. Trump hiểu ra thực tế đó, chúng ta thì không cho nên mới bị ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn nữa khi cử tri phía Dân Chủ lại tham gia bỏ phiếu ít hơn. Họ không say mê náo nhiệt bằng thành phần ủng hộ ông Trump. Bây giờ nhiều người mới ân hận và biểu tình đập phá.

Kịch sĩ Donald Trump cho cử tọa của mình cảm nghĩ rằng đấy là cơ hội để họ làm nên lịch sử, bằng lá phiếu.

Ông có một tổ chức tranh cử luộm thuộm, chi tiền rất ít mà vẫn đạt kết quả bất ngờ trước một đối thủ dày dạn kinh nghiệm và phương tiện, có ban tranh cử toàn những chiến lược và chiến thuật gia có tài đã vận động quần chúng từ cơ sở lên. Nhưng, ngoài những tỳ vết quá lớn của bản thân và gia đình, bà Hillary Clinton còn cho thấy rằng bà là người của quá khứ, với những giải pháp lưỡng đảng của quá khứ - và đã thất bại.

Vì thất bại nên hơn 60% dân Mỹ đang nghĩ rằng quốc gia đi chệch hướng, về cả đối nội lẫn đối ngoại. Kịch sĩ Donald Trump bèn dựng rạp trình diễn vở “Cứu Nguy Nước Mỹ”, và khiến cử tọa trở thành cử tri. Họ nhiệt thành góp phần cứu nguy bằng lá phiếu. Họ cứu nguy vì thấy chính bản thân và gia đình trong nỗi nguy đó.

Mọi giáo phái có thể huy động được tín đồ cho một mục tiêu cao cả nhưng xa vời sau rất nhiều hy sinh khắc khổ. Biệt tài của Trump là nói ra mục tiêu cụ thể thiết thực: trong “cái chung” rất cao cả của tổ quốc Hoa Kỳ, có những “cái riêng” của từng người. Khán giả, cử tọa hay cử tri thấy là chính họ đang tràn lên sân khấu để hoàn tất vở kịch có hậu này - cho bản thân của họ.

Giới nghiên cứu chính trị và xã hội sẽ còn phải đếm lại số phiếu của từng thành phần cử tri để kết luận nhưng vài chi tiết sơ khởi cho thấy hậu thuẫn của Trump không chỉ có đàn ông da trắng ít học và ít tiền. Ông xúc phạm phụ nữ mà vẫn được một số phụ nữ có học ủng hộ. Ông bày tỏ tinh thần kỳ thị di dân lẫn người thiểu số mà vẫn được cử tri gốc Á và Nam Mỹ ủng hộ nhiều hơn ứng cử viên Mitt Romney của bên Cộng Hòa năm 2012.

Nếu có thể nói tới một chiến lược tranh cử thì vào tháng cuối, Donald Trump mới thật sự dàn trận để tranh thủ cử tri tại các tiểu bang xôi đậu mà nhiều người cho rằng đã thiên hẳn về phía Dân Chủ. Ra vẻ uyên bác, có khi người ta nói là ông đánh du kích, lấy nông thôn bao vây thành thị. Thật ra ban tranh cử của ông dồn sức vào các thành phần bị sa sút vì chuyển dịch dân số, vì chuyển động kinh tế của toàn cầu hóa và cả những người ngoan đạo đang e sợ xã hội biến chất vì phong trào “phải đạo chính trị” và nếp văn hóa quá phóng túng của thành phần thượng lưu có học.

Nhưng đấy là chuyện về sau, chứ trong gần một năm trời, ứng cử viên Donald Trump là kịch sĩ làm cho khán giả nhập vai. Vâng, khán giả nhập vai, là điều rất trái cựa!

Bây giờ, đến lượt kịch sĩ Donald Trump thủ vai Tổng thống….

Khi ấy, ta trở về thực tế ngoài sân khấu: Donald Trump là một doanh gia. Biệt tài của ông là có máu con buôn, đã viết sách về nghệ thuật ngã giá! Nói đến ngã giá, các doanh gia đều biết hơn chính trị gia là có cái giá phải trả! Là người diễn vẻ thô lỗ cho quần chúng, tay tỷ phú này không thể không biết luật mà cũng chẳng mơ hồ gì về chính trị nghị trường, là chuyện ngã giá giữa Hành pháp với các phe phái bên Lập pháp trong từng hồ sơ.

Donald Trump có thể thiếu kinh nghiệm chính trị hay quân sự nhưng như mọi doanh gia hay chính khách, ông biết rằng không ai lãnh đạo một mình để tự thân giải quyết cả ngàn hồ sơ của quốc gia. Đấy là công việc của nội các và ban tham mưu mà ông đang thành lập. Kịch sĩ thủ vai nóng nẩy cũng không thể không biết rằng bên kia cũng có nhiều người nóng nẩy - họ đang biểu tình phản đối kết quả bầu cử - và lãnh đạo của họ trong đảng Dân Chủ cũng dàn trận cho cuộc chiến nghị trường đã khởi sự và kéo dài tới cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào năm 2008.

Đấy là khi Tổng thống phải mời kịch sĩ bước qua chỗ khác, chứ không thể đổ dầu vào lửa để làm cử tọa hừng chí.

Từng đề nghị ông đưa ra khi tranh cử - xây tường ở biên giới miền Nam, trục xuất di dân, từ chối Hiệp ước TPP, hay xét lại Hiệp ước NAFTA, v.v… – sẽ được ban tham mưu của Tổng thống và lãnh đạo Cộng Hòa cân nhắc lại theo lối ngã giá. Cái gì làm được cái gì không, và làm được thì phải trả giá bao nhiêu, ai trả và bao giờ trả, với hậu quả chính trị là những gì cho các hồ sơ khác? Là doanh gia, ông Trump cũng biết là phải ngã giá với thị trường, tức là gây hậu quả tới lãi suất, thuế khóa và tăng trưởng kinh tế. Là Tổng thống, ông sẽ biết là phải ngã giá với cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Nhìn ra ngoài, ông biết chánh sách bảo hộ mậu dịch mà ông đề cao sẽ có cái giá về kinh tế lẫn ngoại giao. Về an ninh cũng vậy, giới tướng lãnh, ngoại giao và viên chức bảo an sẽ cho ông biết cái giá phải trả khi muốn xóa bỏ lực lượng khủng bố ISIS, bỏ rơi Liên Âu hoặc đấu trí đấu lực với Trung Quốc, Liên bang Nga, Iran, v.v….

Chủ trương cực đoan quá khích của diễn viên Donald Trump sẽ phương hại cho sự nghiệp của Tổng thống. Khi ấy, kịch sĩ Donald sẽ ngã giá với chính khách Trump. Là người ưa ra vẻ nói thật tới độ phũ phàng, ông sẽ nói thật rẳng mình phải dung hòa, vì quyền lợi tối thượng của Tổ quốc và quần chúng. Nhưng khi đã là Tổng thống thì con vịt The Donald của thời tranh cử sẽ là con diều hâu nếu an ninh của nước Mỹ bị các chế độ hung đồ đe dọa

Khi ấy, đối lập sẽ kết luận rằng Donald Trump là người giảo hoạt, theo cơ hội chủ nghĩa! Họ biết quá chậm một sự thật bẽ bàng mà bậc trưởng thượng trong đảng Cộng Hòa đã thấy từ vòng sơ bộ của cuộc tranh cử! Khi ấy, nếu nghĩ sâu xa hơn về quá khứ, Donald Trump cũng chẳng khác gì nhiều vị tiền nhiệm đã từng hứa một đàng làm một nẻo cho quyền lợi của nước Mỹ.

Nét độc đáo của kịch sĩ có tài là khi nào cũng làm như mình nói thật! Nét độc đáo của Donald Trump là soạn lấy vở kịch cho mình, chứ không dựa vào bài bản của một thế lực nào khác. Nhờ vậy, ông biến không thành có!

Còn lại thì ta sẽ đợi xem vở kịch ngã giá của Tổng thống.

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

Làm gì tiếp theo để có một nền giáo dục nhân văn và hiện đại


Một nền giáo dục dạy con người biết ước mơ và dấng thân để đạt được mục tiêu của cuộc đời liệu có phải là vọng tưởng? Kiến thiết một nền giáo dục nhân văn và hướng tới khả năng thích nghi cao cho những biến đổi của cuộc sống hiện đại chính là bước tiếp theo của thế hệ Việt Nam 2.0 (1) kể từ người Pháp mang nền giáo dục phương Tây du nhập vào Việt Nam sau năm 1858.


Trường học do người Pháp mở ra vào đầu thế kỷ 19 đã tạo ra thế hệ tinh hoa đầu tiên của Việt Nam

Một ví dụ cho những ước mơ còn dang dở

Nếu xem ước mơ của một học trò chính là kim chỉ nan, thì ngành giáo dục phải làm sao thay đổi để có thể hỗ trợ biến ước mơ đó thành sự thật.

Học trò thỉnh thoảng mới nói về ước mơ, mà mỗi lần nói thì mọi người chỉ nghe ở mức độ tham khảo chứ chưa xem đó chính là "phẩm chất" thực sự của người nói. Và ngược lại các em không được dạy và thúc đẩy để tìm kiếm niềm đam mê nên ước mơ của em chủ dừng lại là "bác sĩ", "kỹ sư", "phi công" ... các em phải liên tục trả lời nhiều câu hỏi nữa để xác định xem tại sao mình đang được thôi thúc để làm một công việc

Thực ra làm kỹ sư, bác sĩ, cô giáo ... thì chỉ sau 22 tuổi là có thể học xong đại học và làm được rồi. Liệu trước đó các em có cần xác định rõ hơn là các em cần cứu bao nhiêu người trong đời không? Các em cần xây bao nhiêu công trình đẹp không? Các em dạy bao nhiêu học trò giỏi trong đời không ...

Và sẽ như thế nào nếu các em sống mòn, hoặc đạt được ước mơ quá sớm? Các em sẽ làm gì tiếp với phần đời còn lại? Có gì khác nhau giữa mục tiêu và ước mơ không?

Ví dụ:
- Học trò: em ước mơ làm bác sĩ?
- Thầy giáo: tại sao?
- Học trò: em muốn chữa bệnh cứu người, em rất thương người bệnh, ví dụ như mẹ em vậy đó!
- Thầy giáo: vậy em có nghĩ rằng em có thể cứu giúp được bao nhiều người trong đời không?
- Học trò: dạ chưa? Em phải nghĩ điều đó ngay bây giờ sao?
- Thầy giáo: đúng rồi em. Nếu em mốn cứu hàng trăm người thì em sẽ học để trở thành bác sĩ giỏi. Nếu em muốn cứu hàng nghìn, hàng vạn người thì em phải ráng để làm một giám đốc bệnh viện lớn. Nếu em muốn cứu hàng triệu người thì em phải ráng để thành bộ trưởng bộ y tế. Còn nếu em muốn cứu hàng triệu, hàng chục triệu người thì em phải là khoa học gia nghiên cứu về một giải pháp y học nào đó (vaccine chẳng hạn). Nếu em muốn cứu nhiều người hơn nữa thì em phải ước mơ để làm chính trị gia, hoặc một doanh nhân giàu có .... Nếu muốn cứu nhiều người và rất nhiều người nữa thì em nên là một đức giáo hoàng, một lạc ma, ..... Như vậy, từ nay về sau em hãy từ từ mà suy nghĩ thêm nhé!
- Học trò: dạ, em biết rồi thưa thầy. Vậy thầy ước mơ làm gì?
- Thầy giáo: thầy ước mơ là ít nhất trong đời thầy có vinh dự được dạy một học trò có ước mơ lớn và dấng thân đến cuối đời để đạt được điều đó. Thầy đang rất trông đợi người đó là em.

Là cha mẹ bạn có muốn con cái được hưởng một nền giáo dục như vậy không? Hay chỉ muốn con mình quanh quẩn với những ước mơ mà nói ra để nghe cho vui thôi! Lựa chọn đó nằm ở bạn. Bạn có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nó.

Thời gian trải nghiệm là chìa khóa để mang đến một nền giáo dục hiện đại, cấp tiến

Một khi ước mơ đến được hình thành cho các em ở độ tuổi nhỏ thì các em sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trong suốt quá trình học tập và trưởng thành về nhận thức. Trong đó, một bước quan trọng chính là sự trợ giúp để các em có thể hình thành một bức tranh chung về những điều mà các em cần làm, thực hành và trải nghiệm trên lộ trình đến với ước mơ.



Mỗi người có một ước mơ và mong muốn khác nhau trong đời. 

Nền giáo dục cộng đồng tuy không bao biện cho lối tư duy và đào tạo những con người có chung suy nghĩ, có chung một tiêu phấn đấu, nhưng đó quả thực là rào cản rất lớn cho những hướng đi khác biệt. Vì thế cá nhân hóa giáo dục là một yêu cầu không thể trì hoãn để có thể phù hợp cho những thay đổi trong thời gian tới. Chặng đường kể từ lúc các em biết rung cảm với điều gì sau đó thấy hứng thú hơn với bất kỳ một môn học nào chính là lúc các em sẽ rẽ nhánh và đi theo lộ trình Được-Giáo-Dục cộng với Tự-Học một cách hoàn toàn riêng biệt.

Chắc chắn không cần đến 12 năm trong giáo dục phổ thông để hướng học sinh tới sự phát triển toàn diện và 4 năm nữa để một học sinh tú tài chọn ngành nghề trước khi bắt đầu làm việc. Ở khía cạnh thực tế, chỉ cần một vài năm để nghe-nói-đọc-viết thành thạo một ngôn ngữ, sau đó là các quy tắc căn bản về tính toán và suy luận logic, sau đó là quãng thời gian học trên chính những gì đang diễn ra xung quanh các em.

Những kiến thức chưa cần thiết sẽ được giảng dạy độc lập và các em có đăng ký học mỗi khi cần đến. Sự thành công của những người đi trước dựa trên nền tảng của việc học và nghiên cứu dựa trên niềm đam mê đã được thống kê bằng một con số rất thực là 10.000 giờ (Tương đương khoảng 3.5 năm với mỗi ngày dành ra 8 giờ để trải nghiệm trên chính ước mơ của mình). Như vậy, thời gian để một người học bắt đầu tìm hiểu những mối quan tâm riêng biệt sẽ sớm hơn nhiều so với cách giáo dục cộng đồng mà nhiều nước đang vận hành.

Thời thế đã đổi thay, nền giáo dục buộc phải thay đổi

Hơn nữa, sự thay đổi trong vai trò của lực lượng sản xuất (trí tuệ của con người), tư liệu sản xuất và cả quan hệ sản xuất đã biến đổi rất nhiều so với thời điểm mà lý thuyết triết học về duy vật biện chứng hình thành để tạo nên một trật tự thế giới như bây giờ. Một thế giới mới khi mà sự phát triển nhanh tột độ của khoa học công nghệ, sự chia sẻ những khác biệt trong tư duy đã hướng tới một giai đoạn "quốc thể hóa" ở từng bộ phận có sự phát triển độc lập thay cho quá trình "toàn cầu hóa" (globalization) (2) đã tồn tại và quyết định sức mạnh của một chủ thể bị phụ thuộc, mối quan hệ sản xuất của một quốc gia và những đối tác xung quanh.

Những giáo sư hàng đầu của Mỹ như Larry Katz, Claudia Goldin ... thì luôn phải suy nghĩ cách tiếp cận cho một giai đoạn giáo dục tiếp theo của nước Mỹ. Trong cuốn sách mới đây có tên là 'Cuộc chạy đua giữa giáo dục và công nghệ' (The Race Between Education and Technology) các giáo sư đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thay đổi trong cách giáo dục để làm sao có thể 'thích nghi' được với những tiến bộ đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt là phải bắt kịp với tốc độc ảnh hưởng của công nghệ. Bởi vì khoảng cách giữa trình độ của một người có kinh nghiệm làm việc và một sinh viên tốt nghiệp ngày càng lớn do sự thay đổi liên tục của các tập đoàn hàng đầu trên thế giới trong việc xây dựng các hệ thống và quy trình được đúc kết từ kinh nghiệm đã trải qua. 

Ví dụ: Nước Mỹ chỉ mới trải qua 100 năm phát triển trong ngành giáo dục, nhưng họ đã luôn dẫn đầu thế giới học thuật trong chừng ấy năm qua. Nhưng chính trung tâm của sự phát triển này đã và đang đặt dưới áp lực lớn cho sự thay đổi để tiếp tục duy trì sự dẫn đầu của nước Mỹ trong mọi thành phần của nền kinh tế. Và đó cũng chính là yêu cầu đặt ra cho những điều căn bản như: thị trường lao động nội địa, những công nghệ chi phối sản xuất, sự dịch chuyển của thương mại thế giới ... cũng chính là câu hỏi cho bất kỳ một đời tổng thống nào. Tổng thống thứ 44 của Mỹ là Barrack Obama, đã kêu gọi sáng tạo ngay từ những năm đầu tiên trong 8 năm tại vị của ông để kêu phát triển cho một nền kinh tế sáng tạo để tiếp tục duy trì vị thế của Mỹ. Công nghệ Cracking dầu mỏ từ đá phiến chính là "công cụ cứu tinh" cho suốt nhiệm kỳ TT Obama để nước Mỹ hạn chế sự phụ thuộc vào Nga và Trung Đông Á và bị ít rủi ro hơn về khủng khoảng năng lượng toàn đầu. Nhưng kỹ thuật đó không phải được tạo ra trong những năm Obama lãnh đạo, mà nó được nghiên cứu năm 1986 do tổng thống Ronald Reagan thúc đẩy sau cuộc khủng hoảng dầu thô năm 1973 làm nền kinh tế của Mỹ phụ thuộc vào các khối kinh tế khác.

Trong khi, các nước phát triển đang bàn về nền giáo dục mang tính cá nhân (Personalized Education) để có thể tạo ra một bước chuyển mới trong nền giáo dục toàn cầu và cung cấp một lực lượng sản xuất cao cấp cho tương lai, thì hầu hết các nước lẫn loay hoay với cải tiến giáo dục mang tính quốc hữu hóa, và cộng đồng hóa. Nghĩa là, ở Việt Nam, người ta vẫn quan tâm tới giáo dục trường học công lập và dân lập tập trung với các chương trình khép kín được quy định bởi bộ giáo dục, trong khi đó, nhu cầu về "tự giáo dục" và theo hướng kết hợp tiêu chuẩn đào tạo thông qua hệ thống máy tính tại nhà với sự hướng dẫn của những chuyên gia về giáo dục đang được chuyển dịch và đầu tư mạnh mẽ ở các nước phát triển.

Như vậy, với quyền được theo đuổi đam mê khi còn trẻ và được thúc đẩy một nền giáo dục tiên tiến chính là câu hỏi cho những nền kinh tế mới nổi như Việt Nam và các nước Châu Á có mô hình giáo dục tương tự. Đó không chỉ là những hướng đi để vực dậy một nền kinh tế đang trên đà suy thoái, mà đó còn là một yêu cầu bắt buộc để phục vụ cho mong muốn của con người tại bất kỳ quốc gia nào.


Tác giả: Ce Phan



Chú thích:

(1) Thế hệ 1.0 là thế hệ có được một nền giáo dục cởi mở, tiếp cận được với nền văn minh của thế giới. Giai đoạn của từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi”. Thế hệ 2.0 là thế hệ được kỳ vọng là sẽ được tận hưởng những thay đổi từ khoa học công nghệ và một cách tiếp cận mới trong giáo dục sau một thời gian dài bị tụt hậu.

(2) Đọc phần trích dẫn từ phân tích của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

"Trong một bài tiểu luận kinh tế chính trị trên tờ VĂN LANG, Tập San Nghiên Cứu Việt Học do nhà xuất bản Văn Nghệ và nhà văn Nguyễn Mộng Giác cùng một số thân hữu chủ trương thời ấy, người viết này có viết như sau về ngoại thương:

“Chẳng hạn như khi một người Mỹ mua chiếc xe hiệu Pontiac kiểu Le Mans của hãng G.M. (trị giả khoảng 20 ngàn Mỹ kim tại Hoa Kỳ [theo thời giá năm 1991]), họ thực sự trả sáu ngàn cho người Đại Hàn (tiền nhân công ráp chế), ba ngàn rưỡi cho người Nhật (cơ phận và phụ tùng căn bản gồm đầu máy, trục lái và dụng cụ điện tử), một ngàn rưỡi cho người Đức (tiền thực hiện kiểu xe), 800 cho người Đài Loan, Tân Gia Ba (Singapore) và Nhật Bản (phụ tùng lặt vặt), 500 cho người Anh (phí tổn quảng cáo và chiêu mại), khoảng 100 cho người Ái Nhĩ Lan (Ireland) và Barbados (tiền khai thác điện toán). Còn lại? Chỉ có khoảng tám ngàn Mỹ Kim mới thật sự lọt vào tay người Mỹ, từ các quản trị gia ở trên tới các công nhân ở dưới và sau cùng là cổ đông (những người chủ của các cổ phần của hãng G.M.), trong số đó, có khá nhiều người không phải là quốc tịch Mỹ.”

Phần kế toán trên nói đến “quốc tịch mơ hồ” của chiếc xe để kết luận là “Với sự thay đổi trên đây, tương quan giữa chủ quyền quốc gia và quyền lợi kinh tế sẽ có lúc không đi đôi với nhau.”

Bài tiểu luận gần 15 ngàn chữ qua 30 trang, có đề tựa là “Từ Kinh Tế Cộng Sản sang Kinh Tế Tự Do, nhu cầu của một Chủ Nghĩa Quốc Gia Mới trong một Thế Giới Liên Lập,” với nội dung cảnh báo Việt Nam rằng sức ly tâm của phát triển kinh tế sẽ đe dọa trật tự xã hội và sự thuần nhất quốc gia. Một trong các yếu tố giải thích nguy cơ ấy là kinh tế càng phát triển theo thế hội nhập với quốc tế thì thành quả của phát triển càng phân phối không đều. Tại thành thị, một số người làm giàu nhanh nhất, vượt xa các thành phần còn lại, với nếp sống hướng ngoại khác hẳn người dân còm cõi tại nông thôn, mà nhiều thành phần xã hội cũng không được hưởng kết quả phát triển và chẳng theo kịp trào lưu hội nhập kinh tế vào một thế giới liên lập (interdependent – thời ấy chữ “toàn cầu hóa” chưa mấy phổ biến).

Khi ấy, chủ quyền quốc gia sẽ là gì và chủ nghĩa quốc gia dân tộc là gì?"

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

Cá nhân hóa giáo dục- một yêu cầu bắt buộc từ cuộc sống

Kiến thức được truyền đạt như thế nào trong tương lai?

Chắc hẳn mọi người sẽ nghĩ ngay tới nhà giáo và hệ thống giáo dục sẽ đảm nhận vai trò trên. Nếu như chỉ nhìn vào cách mà các nhà sư phạm đã làm được trong hệ thống giáo dục hiện tại thì có thể góc nhìn sẽ bị giới hạn khá nhiều trong xu hướng giáo dục mà con người hướng đến hiện nay và bối cảnh mà Việt Nam đang trải qua với nền giáo dục khá lạc hậu của mình.

Bài viết sẽ cố gắng định lượng rõ ràng nhất có thể về vai trò của người thầy trong những năm tới khi mà Việt Nam còn bì bõm trong vùng trũng của nền giáo dục của thế giới, trong khi những nền giáo dục khác đã  bắt đầu áp dụng hướng đi mới sau khi đã tích lũy đủ lượng và chất trong thời gian khá dài kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1914 để dẫn tới một cuộc cách mạng công nghiệp mà nó vẫn còn ảnh hưởng cho tới ngày nay sau hơn 100 năm.

Sự 'quá tải' về thông tin và các phát minh mới

Nền giáo dục ở những nền kinh tế mở luôn đặt dưới áp lực trong việc chuyển tải các thông điệp và các bài học một cách liên tục, cấp tiến trong một xã hội công nghệ thông tin (IT Society) do đó luôn có một khoảng cách giữa kiến thức trong các nghiên cứu, phát minh mới và những gì đã truyền tải trong hệ thống giáo dục đại chúng.

Ước tính mỗi ngày trong một lĩnh vực có hơn 10.000 nghiên cứu được công bố (năm 2015) và khi internet mới bùng phát vào năm 2003 thì có hơn 170 terabytes dữ liệu được chia sẻ trực tuyến (1 terabye ước tính bằng khoảng 40,25 triệu tờ giấy A4 viết các thông tin vào đó). Ngày nay, con số đó còn tăng theo cấp số nhân đến mức tính toán cho việc thiết lập hệ thống máy chủ đề lưu trữ thông tin thông minh luôn là ưu tiên hàng đầu của những hảng công nghệ như Google và Facebook.

(Nhiều tổ chức giáo dục ở nước ngoài đã 'vận động' nhiều năm qua để hướng đến sự thay đổi để không bị lỗi thời so với sự phát triển bên ngoài, hình ảnh chụp từ một bài học có tên là "Information overload" trong một sách học IELTS)


Những mô hình giáo dục mới hoặc các học viện- những nơi tiếp cận gần nhất với kiến thức tân thời. Nơi mà người thầy cũng chính là những nhà khoa học. Hệ thống giáo dục như vậy được hình dung như là những "chiếc thuyền có gắn động cơ" để chuyển tài kiến thức nhanh nhất có thể. Nhưng liệu còn đó điều gì đáng nói và khoảng trống còn sót lại của chính mô hình này là gì và nền giáo dục đại chúng sẽ phải như thế nào trong tương lai là một câu hỏi lớn.

'Lệch vai' trong vai trò phát minh và truyền tải thông điệp

Sẽ như thế nào khi các nhà khoa học phải đóng vai làm thầy giáo dạy các môn khoa học tự nhiên và khi mà các nhà văn, nhà thơ dạy về văn học, ngôn ngữ!? Xã hội đang thiếu vắng một thế hệ nhà giáo có khả năng cảm thụ và truyển tải kiến thức một cách nhanh chóng những gì diễn ra bên ngoài thực tế và hiểu biết những sự dịch chuyển của nền văn minh của nhân loại. Trong khi đó, các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ liệu có nên lùi lại để dìu dắt và giải thích cho mọi người rằng họ đang làm gì?

Tuổi đời của nhà khoa học thường khá ngắn ngủi và nhiều khi cả đời của họ chỉ kịp đặt nền móng cho một hướng nghiên cứu nào đó. Ví dụ: tiến sĩ Yoshinori Ohsumi đã dành ra 30 năm trong cuộc đời của ông để nghiên cứu về cơ chế tự thực bào (autophagy) và vừa nhận được giải thưởng Nobel trong lĩnh vực y học năm 2016. Đó mới chỉ là nghiên cứu cơ bản và còn phải cần thêm nhiều năm nữa để tiếp tục tiến hành những bước tiếp theo trước khi biến nó thành một bước ứng dụng nào đó. Liệu có nên trông đợi ông quay trở lại các trường Đại học để giải thích và giảng giải về công trình của ông? Hay tốt hơn hết là ông nên tiếp tục với nhóm nghiên cứu của mình và tìm cách thúc đẩy sự kết hợp liên ngành để mang tới sự thay đổi lớn hơn trong lĩnh vực y khoa trong tương lai. Liệu chúng ta có trông đợi GS. Ngô Bảo Châu quay trở lại với các chương trình giảng dạy môn toán để giải thích về bổ đề cơ bản Langlands hay như thế nào?

Nền giáo dục hiện tại đang phải trông cậy nhóm tinh hoa này (elites) quay trở lại và giải thích những điều mà mình vừa nghiên cứu được. Khoảng trống giữa nghiên cứu khoa học, những phát minh mới sẽ ngày càng có khoảng cách lớn hơn với nền giáo dục cộng đồng. Tốc độ nghiên cứu, cách làm việc và tư duy độc lập giúp các nhà sáng tạo liên tục tạo ra những cái mới trong khi đó nền giáo dục đi sau đó lại hướng đến cách giảng dạy giống nhau và luôn mong muốn có một chương trình chung và thống nhất trong một cộng đồng người.

Ví dụ nào cho dễ hiểu về những thiếu xót trầm trọng của nền giáo dục đương thời

Trong Video này, tác giả giải thích sự trị trệ của hệ thống giáo dục trên thế giới. Xem và hãy nhìn về Việt Nam để thấy chúng ta tư duy trì trệ và bảo thủ như thế nào so với các nước khác, và so với yêu cầu thực sự của xã hội trong tương lai gần.



Nhìn lại Việt Nam với quá trình cải cách giáo dục và mãi loay hoay với bài toán làm thế nào để cải thiện được cách giảng dạy để có thể "cung cấp" đủ cho "nhu cầu" của sự phát triển. Giá mà bộ giáo dục không làm gì hết trong nền giáo dục Việt Nam trong bao nhiêu năm qua và để cho khối giáo dục tư nhân có nhiều điều kiện phát triển thì chắc hẳn diện mạo giáo dục đã tốt hơn nhiều rồi.

Như vậy, người thầy trong tương lai sẽ hóa vai như thế nào để tiếp tục được xem là "người lái đò" chở thế hệ trẻ tới kiến thức và nền văn minh của nhân loại?

Năng lực của nhà giáo trong tương lai

Thầy giáo của tương lai sẽ là những người có khả năng tổng hợp tốt những xu hướng đang diễn ra trong thời điểm hiện tại cũng như biết cách xây dựng một hệ thống bài giảng ngay tức thì và truyền đạt thông qua những công cụ mới chứ không phải là cách bám theo những cuốn sách giáo khoa sơ cứng được biên soạn phổ thông của nền giáo dục "mang tính địa phương" và như những gì chúng ta đã áp dụng cả mấy trăm năm qua.

Chính vì sự phân hoá trong xu hướng của sự phát triển biến kiến thức phổ thông ngày càng đồ sộ hơn và bắt buộc một nền giáo dục mới có khả năng sàn lọc thông minh những gì sẽ đưa vào dạy học và hệ thống tiêu chuẩn giáo dục được cập nhật mới liên tục. Rồi sẽ nhanh chóng tiến tới giai đoạn mà sách giáo khoa chỉ còn là những từ khóa cô dọng nhất về những gì diễn ra bên ngoài xã hội và chắc hẳn một người thầy với đầy đủ phẩm nhất mới mới có đủ khả năng truyền tải hết những bài học để tạo ra một thế hệ kế thừa cho sự phát triển của nhân loại.

Sẽ cần có bao nhiêu người thầy như vậy nữa cho sự phát triển khi mà nhu cầu học thuật ngày càng chuyên biệt hoá không chỉ ở cấp học lớn mà còn là nhu cầu cấp thiết hơn ở cac cấp học nhỏ hơn. Và chính giáo dục sẽ phải thích ứng để còn được định nghĩa là một phần trong các bộ phận phát triển và chuyển giao kiến kiến thức của nhân loại.

Cá nhân hóa giáo dục- một yêu cầu bắt buộc từ cuộc sống

Một mô hình giáo dục mang tính cá nhân là điều không thể né tránh trong tương lai gần. Khi
mà người hoc, nhà giáo và phụ huynh sẽ cũng chung tay xây dựng một lộ trình học tập trên sự diễn đạt của của một hệ thống giáo dục giàu tính tương hỗ và áp dụng khoa học công nghệ để giảm tải quá trình tìm kiếm kiến thức phù hợp và quy trình đánh giá mới.

Khác với Việt Nam - nơi mà nghiên cứu đều phải phù hợp với những gì đã được vạch ra từ trước hoặc đã được quy hoạch. Trái lại, ở châu Âu và Mỹ là xứ sở mà những phát minh mới sẽ làm thay đổi xã hội và mọi thứ sẽ thay đổi theo nó. Tất cả mọi thành phần trong xã hội sẽ tái cấu trúc, sẽ phải thay đổi cho một mô hình phát triển mới.

Hãy thử làm vài phép so sánh để thấy được sự phát triển vượt bậc của thế giới bên ngoài chênh lệch thế nào đối với nền giáo dục hiện tại. Sự lạc hậu và trì trệ của nền giáo dục đương thời như thế nào để thấy được cách làm giáo dục hơn bao giờ hết phải thay đổi trong yêu cầu cấp thiết nhất trong tương lai gần.

(Cuộc sống đã thay đổi quá nhiều trong khi mô hình giáo dục vẫn mang tính "cộng đồng" như cách đây 300 năm về trước)

Tác giả: Ce Phan


Ce Phan, tác giả của bài báo, nhà sáng lập của CEP Education, đang miệt mài xây dựng một chương trình học tiếng Anh hướng tới giảng dạy tiếng Anh, thúc đẩy quá trình hiểu biết ngoại ngữ để giúp người Việt nhanh chóng tiếp cận với nền tri thức của thế giới. 



Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Từ Nguyễn Trường Tộ cho đến những tranh luận ngày nay về dạy tiếng Hán ở Việt Nam



Bài viết của tác giả: Phạm Minh Tùng, đang du học tại Baden-Württemberg, CHLB Đức. Bài báo này được đăng tại báo BBC Tiếng Việt để góp ý một góc nhìn mới về giáo dục tiếng Hán trong chương trình học chính khóa tại Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử cuối thế kẻ XIX, nhà duy tân tiên phong lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong khi chủ trương xây dựng chữ Quốc Ngữ ở Việt Nam, đã không dùng chữ Quốc ngữ do các nhà truyền đạo phương Tây sáng tạo.

Ông chủ trương lấy chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt.

Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận lợi ích của chữ Quốc Ngữ được latin hóa. Trong khi đó, với chữ Hán, phải “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách), chữ Quốc ngữ chỉ cần học hết lớp một (theo chương trình giáo dục Việt Nam) cũng đã có thể đọc thông viết thạo.

Lịch sử cũng đã chứng minh rằng chữ Quốc ngữ đã giúp Việt Nam xóa nạn mù chữ sau năm 1945, và quan trọng hơn cả là giúp Việt Nam phân định sự khác biệt đối với anh bạn “láng giềng lâu năm”.

Lịch sử đã sang trang, Việt Nam ngày hôm nay là sự năng động và toàn cầu hóa.

Và trong sự toàn cầu hóa này, Việt Nam cần phát huy và tận dụng lịch sử, ngôn ngữ lâu đời để tiếp cận tinh hoa và kiến thức Đông Á một cách dễ dàng hơn.

Nền tảng cường quốc

Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài viết "Chữ Tây và Chữ Hán chữ nào hơn?" (theo Bán Nguyệt san Kiến thức ngày nay, 1989), cho rằng từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, người châu Âu yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC - thứ chữ ghi âm là hợp lý nhất.

Nhưng từ sau những năm 30 của thế kỷ XX, sau các công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan điểm chữ viết ghi âm ưu việt hơn đã phải nhường chỗ cho quan điểm “tổ hợp âm” chữ viết.

Năm 1978, một nhóm học ở Mỹ đã làm thí nghiệm, họ mở một lớp gồm trẻ em bị chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng tiếng Anh nhưng bằng chữ Hán.


Tác giả dẫn lời học giả nước ngoài cho rằng chữ Hán là một nền tảng của sự thịnh vượng của một số cường quốc châu Á ngày nay.

Ví dụ: “He came to a high mountain”, chữ Hán là 他 到 及 一 高 (tha đáo cập nhất cao sơn), thì sau 1 năm, các em đọc và viết được 1.600 từ đơn và về khả năng hấp thụ tri thức tỏ ra không 'đần độn' chút nào.

Thậm chí kết quả học tập có phần trội hơn các em tiểu học bằng chữ ABC. Điều này có thể lý giải bời vì, đối với loại trẻ khuyết tật, khả năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn khả năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích).

Để chứng minh tính ưu việt của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và khi đọc, người biết chữ thành thục không cần đánh vần.

Họ nhận ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt, mũi, miệng, rồi tai…), mà nhận ra ngay toàn thể diện mạo của vật hay người đó.

Tâm lý học hiện đại từ đó mà có khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là Gestalt.

Nếu Gestalt càng gọn ghẽ thì việc nhận dạng càng nhanh chóng. Chính từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách 'Le nouveau monde sinisé' (tạm dịch “Thế giới Hán hóa mới”), Leon Vandermeersch đã chỉ ra rằng: sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, và Singapore phát triển nhanh chóng thành những “con rồng” của châu Á vì họ vẫn dùng chữ Hán.

So sánh khập khiễng

Theo tôi đã có sự so sánh khập khiễng giữa hệ thống chữ Latin với hệ thống chữ Hán.

Chữ Latin đã tồn tại từ rất lâu và ngày hôm nay hệ thống latin có ảnh hưởng không nhỏ đến từ vựng của ngôn ngữ Phương Tây.

Bằng chứng là rất nhiều từ vựng tiếng Anh giống tiếng Đức, tiếng Pháp. Vì thế, giới trẻ phương Tây có thể thành thạo nhiều thứ tiếng và trở nên năng động hơn, trở thành công dân toàn cầu một cách dễ dàng.

Còn với Việt Nam, gần như chúng ta đã thay đổi hoàn toàn một thệ thống chữ cái khác hẳn. Hệ thống chữ cái Việt Nam ngày nay chẳng còn liên hệ một chút nào đến các từ Hán - Nôm.

Vì thế người Việt học tiếng Anh, Pháp, Đức cũng khó (chữ Latin, nghĩa Hán - Việt), học tiếng Trung, Nhật, cũng khó (Nghĩa Hán Việt, chữ Hán tự).

Nói một cách khác, người Việt học tiếng Anh và tiếng Hán đều mất nhiều thời gian. Một sự bất lợi mà chính sau khi Chính Phủ Trần Trọng Kim ban hành phổ cập chữ quôc ngữ cũng không thể ngờ tới.

Về Thế giới Hán hóa ngày nay, có thể chia sẻ một chuyện. Tại một ngôi làng nhỏ thuộc bang Baden-Wuttemberg, nước Đức, một bộ phận sinh viên Đức học kinh tế chính hiệu có thể giao tiếp cơ bản tiếng Hán.
Chữ Hán có thể giúp đỡ việc học văn hóa và ngôn ngữ của một số đối tượng là trẻ em khuyết tật, theo tác giả.

Vào mỗi thứ năm hàng tuần, ngay chính tại night club Expressguthalle nổi tiếng nhất ngôi làng đó, sau khi chìm đắm vào những ly rượu Cocktail, các sinh viên Đức lại thi tài với nhau về khả năng nói nhiều thứ tiếng. Và một trong những ngôn ngữ không thể thiếu đó là tiếng Trung.

Tại các thành phố lớn như London, New York, Paris đều có một bộ phận không nhỏ người Hoa đang sinh sống và làm việc.

Còn đối với Việt Nam, các nước nói tiếng Trung như Đài Loan, Singapore, Trung Quốc và cả Malaysia đều là những đất nước có lượng đầu tư lớn vào Việt Nam. Một số lượng lớn du học sinh Việt hiện đang du học tại những đất nước này. Và quan trọng hơn cả, số lượng người nói tiếng Trung đã vượt qua số lượng người nói tiếng Anh trên toàn thế giới.

Sự 'giống nhau' Hán - Việt

Tiếng Hán đã gia nhập kho tàng ngôn ngữ Việt dưới tên gọi Hán - Việt. Nó chiếm khoảng 70% vốn từ tiếng Việt như ta thường thấy, đặc biệt là trong kinh tế và chính trị .

Đơn giản như từ: “chủ quyền” thì tiếng Hán là “主权”- đọc là “Zhǔquán”, còn tiếng Anh là sovereignty. Khả năng ghi nhớ từ vựng tiếng Hán (âm pinyin) sẽ nhanh hơn tiếng Anh.

Như một sự khởi đầu, theo tôi, dẫu biết thay đổi một sớm một chiều một hệ thống giáo dục là vô cùng khó, thế nhưng thay đổi step-by-step (từng bước một) là điều hoàn toàn có thể làm được. Phổ cập chữ Hán - Nôm cơ bản có thể khởi đầu từ những học sinh cấp hai.

Sự kết hợp giữa ngữ văn và đọc viết cơ bản chữ Hán Nôm nên đi song hành vào các tác phẩm thơ phiên âm đang giảng dạy. Những bài thi, bài kiểm tra Hán - Nôm học thực sự cần sự trú trọng và tính nghiêm túc trong giảng dạy.

Nếu truyện Kiều được dạy bằng Hán - Nôm thì chắc chắn sẽ đặc sắc hơn cái kiểu học thuộc lòng “bằng chữ Quốc ngữ” như bây giờ.

Các nhà làm chính sách nên coi chữ Hán Nôm như là một văn hóa từ ngàn đời nay do cha ông ta đúc kết lại để những thế hệ sau có cơ hội được quảng bá một loại chữ viết đặc sắc của Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.

Để thay cho lời kết, chúng tôi nghĩ rằng ngược dòng lịch sử cuối thế kẻ XIX, nhà duy tân tiên phong lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ khi chủ trương xây dựng chữ Quốc Ngữ, đã không dùng chữ Quốc ngữ do các nhà truyền đạo phương Tây sáng tạo.

Ông chủ trương lấy chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Hơn một thế kỷ trôi qua, có lẽ đề xuất của Nguyễn Trường Tộ vẫn còn mang tính thời đại.

(Ghi chú của tác giả: "Bài viết có dùng nguồn từ bài báo “Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam” của Nguyễn Đình Chú trong tạp chí Hán Nôm số 2 (69) năm 2005.")

Ghi chú: Tựa đề do Ce Phan đặt lại để phù hợp với nội dung của bài đăng trên blog này

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Cô đơn giữa đám đông: từ hình ảnh cá nhân cho tới đất nước

Tôi xin bắt đầu câu chuyện từ hai chữ tiếng Anh trong một tựa đề sách là "Alone together" (Tạm dịch: cô đơn giữa đám đông), tên của một cuốn sách được viết bởi một giáo sư Sherry Turkle của học viện MIT (Đại học đứng số 1 thế giới) và xuất bản năm 2012. Câu slogan của dòng suy nghĩ được chuyển tải thông qua cái nhìn xuyên lịch sử, văn hóa và sự phát triển thế giới của một tác giả lớn được thể hiện gói gọn trong câu hỏi và cũng chính là câu trả lời: Why We Expect More from Technology and Less from Each Other (Dịch nôm na là: Tại sao chúng ta lại mong đợi nhiều hơn từ công nghệ mà không phải chính từ những con người quanh ta).



Chúng ta nhìn thấy gì trong nỗi cô đơn của người Việt qua lịch sự phát triển đất nước và con người trong từng chặng thăng trầm của thế giới?


Trong giai đoạn sinh thời của dòng giống người Việt và mối lương duyên cũng như sóng ngầm bên trong giữa những cuộc chiến kéo dài suốt hàng nghìn năm lịch sử trong thời kỳ kiến quốc giữa Việt Nam, Tàu và một số nước xung quanh chúng ta. Đó là giai đoạn cho dù đất nước nhỏ bé có lúc thắng lúc, lúc thua có lúc bị đô hộ cả nghìn năm, nhưng ít ra thì sự chênh lệch giữa trình độ và sự phát triển giữa người Việt tiền sử cho đến người Việt lịch sử không thua kém gì nhiều so với những nước xung quanh. Thậm chí có những giai đoạn mà những kỹ thuật của người Việt đã làm cho những nước xung quanh này phải kinh ngạc. Đó là kỹ nghệ đóng thuyền, mà tôi nhớ không lầm trong một tài liệu lịch sử viết lại là sau khi một đô đốc của Tàu bị thất trận trong cuộc chiến với Ngô Quyền, ông đã đưa sớ lên hoàng đế Trung hoa cho người đến Việt Nam để học hỏi kỹ nghệ này (Lúc đó người Tàu mới chỉ biết đóng ghe nhỏ để đánh bắt cá gần bờ là chính, hầu như chưa đóng được thuyền bè lớn có khả năng chiến đấu)


Giai đoạn mà người Việt cảm thấy hoàn toàn ngơ ngác và đơn độc giữa làn đạn của chiến tranh thế giới và sự phát triển trong cuộc cách mạng công nghiệp là lúc người Pháp bắt đầu đặt chân tới Đà Nẵng vào đầu thế kỷ 19. Tuy thế giới đang trong giai đoạn chiến tranh, nhưng đó vẫn được xem là cuộc chiến của những gia tộc lớn - nằm giữ hãng xưởng và chính trị quốc gia, còn người dân ở những nước đế quốc và thực dân vẫn được hưởng cảm giác đang sống trong một xã hội tiên tiến, được sử dụng những phương tiện tân thời nhất trong giai đoạn này. Họ đã biết cầm lá phiếu trên tay để cùng phủ quyết quyền lợi của bản thân dựa trên nền văn minh mới nổi ở những đất nước thời đó. Nơi mà tôi đang nhắc tới đó là Âu châu và Mỹ.


Trải dài giai đoạn này có thể kể từ Nguyễn Trường Tộ cho đến bộ ngũ "Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi" (theo cách gọi của GS. Nguyễn Ngọc Lanh). Đó chẳc hẳn là những bậc trí thức cô đơn nhất. Họ không chỉ bị truy bức của giai cấp cầm quyền để kiềm hãm sự ảnh hưởng và tiếp cận của họ tới nền dân trí mà họ thậm chí còn bị chính 'dân ngu quá lợn' trù dập khi họ trở về từ lao tù. Lịch sử vẫn chưa biết xếp họ vào giai tầng nào cho xứng đáng với đầu óc và cống hiến của họ trong một giai đoạn lịch sử bởi lẽ phải còng 2 tròng của 1 nghiệp người.


Lịch sử đương đại liệu có khá hơn và những con người còn xót lại sau cánh cửa, đứng nhìn thời cuộc và tiếp tục thức thời còn có ai?


Trở lại với những năm đầu mà người Mỹ đến Việt Nam mang theo những container đầu tiên tại cảng Sài Gòn, Hải Phòng ... Vài chục chiếc hộp khổng lồ đó không chỉ là những công cụ giúp người Mỹ và Âu châu tạo ra cuộc cách mạng về vận tải hàng hóa, mà đó là một câu hỏi để mà từ những năm 1950s nó thay cả một nền văn minh nhân loại phát triển thuận chiều với nền kinh tế thị trường và sự tăng tốc đến mỗi tàu siêu vận tải đã có thể chở đến 2 vạn thùng sắt như vậy để thay đổi thế giới. Những chiếc thùng này chở được bất kỳ một loai sản phẩm hàng hóa nào và những con người nội địa đã bắt đầu quen thuộc với những sản phẩm đến từ nhiều nơi với giá cả phải chăng. Đó là quả là một sự lĩnh ngộ vô cùng lớn với người địa phương.


Bất kỳ chế độ nào đi qua, thì giới lãnh đạo sẽ chỉ quanh quẩn ở những khái niệm cai trị của riêng họ. Điều quan trọng nhất là người dân bên trong sống thế nào. Những tưởng rằng người Việt được hưởng bọt sóng từ sự phát triển mới du nhập từ trời Âu, nào ngờ số mệnh lịch sử lại đẩy người Việt tiếp tục lầm tha vào cuộc chiến triền miên suốt cả trăm năm. Đó là cuộc chiến mà những nông dân với gậy gộc, những phụ nữ cầm liềm, những em bé cầm sỏi đá... tất cả dân đen đều phải đổ máu. Trong khi đó, ở chân trời kia con người vẫn được hưởng thái bình và chiến sự có xảy ra thì nó vẫn là cuộc chơi binh quyền, súng đạn và thư hùng trận ... người dân có liên quan ở mức hạn chế nhất. Khái niệm "Chính trị động, xã hội tĩnh" cũng ra đời từ đó.


Sau cuộc đại cách mạng công nghiệp dẫn đến nhiều biến động lớn trên thế giới qua hai cuộc chiến xảy ra trên khắp hành tinh này, thời kỳ internet mở ra cho khoa học một chân trời mới sau khi nó được đáp trả từ yêu cầu của khoa học. Đây là giai đoạn mà mọi người bị choáng ngợp bởi sự phát triển của khoa học công nghệ và nó ảnh hưởng tới tất cả những ngành nghề khác, kể cả: nông nghiệp, giáo dục ... Nhưng một lần nữa người Việt bị lỡ nhịp và không được tận hưởng gì nhiều từ sự phát triển này do không có sự kế thừa của giai đoạn phát triển công nghiệp. Mà lịch sử còn ghi nhận một giai đoạn thụt lùi cả vài chục năm so với các nước khu vực khi giới lãnh đạo trong nước có nhiều định hướng sai lầm về công hữu tư liệu sản xuất.


Lúc này nỗi cô đơn của dân tộc không còn gói gọn ở số ít vì sao sáng như giai đoạn Pháp-Mỹ. Khi mà tỷ lệ ít mù chữ ở những nước như Nga, Trung Quốc, Triều Tiên cũng như Việt Nam đang ở mức cao và khá tự hào thì tri thức của những con người bên trong vẫn không phát triển. Ở một chiều hướng khác, cách dạy quốc dân biết chữ còn hàm ý dạy cho mọi người biết cách đọc sách, biết đọc báo để tiếp nhận những thông tin và yêu cầu từ giới lãnh đạo. Nỗi lo sợ xã hội có nhiều "Chí Phèo" nguy hiểm hơn là xã hội bình dân học vụ. Dù sao, mọi người biết đọc chữ, hiểu chữ nghĩa vẫn dễ định hướng hơn. Đây là giai đoạn mà nỗi cô đơn được hiểu ở nghĩa rộng hơn. Cô đơn với tiền nhân, xấu hổ khi nhìn lại câu triết lý của Phan Chu Trinh: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" từ ngày đầu chống Pháp tới mãi về sau người Việt vẫn chưa làm được bước đầu tiên trong 3 bước mà cố nhân đã dạy.



Chuyện của nhà đấu tranh dân chủ Huỳnh Ngọc Chênh ngồi tọa kháng ở ngay chính nơi mà cách đây gần 100 năm người Pháp mở ra một tòa án Hòa giải (Justice de Paix), nay là tòa tháp Sun Wah Tower. Chính vị trí trung tâm là pháp trường, nơi mà máy chém sẽ thi hành công lực của giới cầm quyền đối với số phận của con người. Khi nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh ngồi ở đây vào giữa trưa nơi không còn máy chém, không còn chiếc đồng hồ lịch sử, mà đó là một đài nước phẳng chỉ phun nước vào ban đêm hoặc những dịp quan trọng. Đã không có giọt nước mát nào cho anh, liệu anh có thấy cô đơn giữa đám đông đang vận hành dòng chảy điên cuồng không dẫn tới đâu, liệu anh có cần đồng hồ để nhìn lại những gì đã xảy ra ở chính nơi anh ngồi ...


Trở lại cuốn sách Alone together đã được giới thiệu ở đầu bài. Bạn sẽ thấy gì trong dòng chảy của nhân loại khi mà tiếp đây nữa là công nghệ 3D Printing (Công nghệ sản xuất theo lớp được phun 3 chiều) sẽ là đầu máy để kéo sự phát triển ở những chiều nhất định. Liệu giai đoạn toàn cầu hóa được hiểu là cách hợp tác sản xuất và phân phối bây giờ sẽ sắp sửa được thay đổi khi mà một hảng, một đất nước có thể làm ra các sản phẩm đầu-cuối và họ chỉ cần đến tư liệu tinh và lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Việt Nam rồi sẽ là toa tàu nào trong chuỗi đoàn tàu thế giới đang chạy bằng đầu kéo đó. Hy vọng đó không phải là toa cuối, hoặc một chiếc xe đẩy bên đường đứng nhìn thời cuộc.

Niềm tin cho sự phát triển và bắt kịp hơi thở thế giới của người Việt vẫn còn khá e dè. Mới 2 hôm trước thôi, hàng loạt 4, 5 tờ báo lớn đều đồng loạt đăng loạt bài về giáo dục, rằng: Việt Nam muốn thay đổi giáo dục. Tưởng chừng đó là một dấu hiệu tốt đẹp nhưng những gì mà giới tri thức làm được đó là mang hình ảnh con trẻ với hình hài đáng thương và góc nhìn của những kẻ thất bại đã về hưu để thuyết phục công chúng. Tôi đã liên lạc tới tờ báo có lượt chia sẻ lớn trên mạng xã hội Facebook là Cafebiz để gỡ tấm hình đứa trẻ khóc, vì nó vi phạm nhân quyền và đạo đức nghề báo. Điều đáng buồn nhất, đó là hàng trăm nghìn lượt chia sẻ bài viết giống như bắt được vàng, hay nhận ra một chân lý ghê gớm gì đó về giáo dục, hay đó chỉ là sự chia sẻ trong vô thức. 

Hãy nhắm mắt lại, đừng tranh luận, đừng nói về những điều khác nữa... hãy tưởng tượng bạn sẽ như thế nào nếu bạn là ba mẹ của đứa trẻ đó, hay chính bạn là đứa trẻ đó. Hình ảnh khóc, buồn đau đó là cái "nhãn" gắn liền với cuộc đời của em. Bạn bè, xã hội nhìn về em như một điều gì đó đặc biệt, xúc động, thương cảm .... ! Tội nghiệp cho cuộc đời của em khi phải sống với cả xã hội trơ trét như thế này. Nếu đó là chuyện xảy ra ở trời Âu trong một gia đình người da trắng thì sẽ có một vụ kiện, nếu đó xảy ra với một gia đình hồi giáo ... thì đó sẽ là hình ảnh nuôi nấng sự bất mãn xã hội, chán ghét cuộc sống của loài người. Và đó sẽ là ... những vụ khủng bố. Chỉ vì ... cô đơn giữa đám đông. 

Hãy đừng nói, đừng nói, hãy nghĩ và mường tượng xem !

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

'Khô héo lời' và 'sa mạc lời' được minh họa qua 2 video ca nhạc

Đây là lần đầu tiên tôi dùng 2 tiếng lóng mà thỉnh thoảng tôi thấy các bạn trẻ hay dùng qua các mạng xã hội là "khô héo lời" (có nghĩa là- không còn lời nào để nói) và "sa mạc lời" (có nghĩa là- có nhiều điều để nói, có nhiều ý nghĩa).

Các chủ đề khác tôi thường trì hoãn tới cuối tuần mới viết và chia sẻ những trải nghiệm của riêng mình. Nhưng bài này tôi chỉ dẫn lên 2 video để minh họa cho 2 cụm từ mà tôi vừa đề cập ở trên và xin không bình luận gì hơn về nội dung trong video.

Mở mắt để xem, lắng tai nghe và nhận xét bằng con tim nhé !

Video 1:

(Tôi không muốn đưa clip này lên, hãy xem qua Facebook của người đã chia sẻ)

Video 2:





Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

Cầm tinh con khỉ hay làm trò khỉ?

Trong 4 con vật mà Robert Kiyosaki minh hoạ cho 4 kiểu người trong một xã hội, gồm có: con khỉ, con sư tử, con cú và con ngựa thì tôi đặc biệt quan tâm tới con khỉ. Sở dĩ theo tác giả phác hoạ, con khỉ tượng trưng cho nhóm người thông minh, lanh lợi. Họ có năng lực làm việc rất linh loạt, biết dựa vào uy thế của sư tử, biết lắng nghe cú và biết cách sử dụng ngựa. Cũng vì thế mà mỗi khi tôi hỏi học trò về hình tượng con vật mà bạn yêu thích trong nhóm 4 con đó thì phần đông vẫn chọn con khỉ.

Đó là câu chuyện của một doanh nhân Mỹ gốc Nhật, còn người Việt thì tâm niệm nhân sinh quan theo thuyết ngũ hành có ảnh hưởng từ Trung Quốc. Người miền Bắc khi gặp nhau thì hỏi "bạn cầm tinh con gì?", câu này trong miền Nam thì được hiểu là "bạn tuổi con gì?". Những nhà bói toán thời xưa quan niệm từng con vật tái hiện cho một chòm sao chiếu mạng được gọi là can chi và mỗi người sẽ lớn lên và tái hiện rõ nét dần theo tâm niệm cho mỗi chòm sao đặc thù.

Dù chỉ có 12 chòm sao theo quan niệm cổ, nhưng những nhà chiêm tinh học tin rằng chừng ấy là đủ để có những dự báo cho số phận của mỗi con người. Và người Việt thời hiện đại thì có vẻ càng dễ tiên lượng hơn. Tôi thấy mình là một trong số khoảng 90 triệu con khỉ đang tồn tại với những biểu hiện rất giống nhau.

Người Việt đang trong 'giai đoạn quá độ' trong cả xu hướng chung được định nghĩa bởi một đảng phái chính trị duy nhất và cả tính cách riêng được tái hiện qua cách 'suy nghĩ nước đôi' (double-think) khi ai cũng phải học cách lươn lẹo để định nghĩa bản thân mình trong xã hội mà nó không cổ xuý cho chủ nghĩa cá nhân. Mặc dù theo cách hiểu triết học thì đi lên từ chủ nghĩa cá nhân tới chủ nghĩa cộng đồng (tập thể) hay ngược lại thì cả hai hình thái đó đều hiện diện bên trong mỗi người. Một trong hai điều bị loại trừ trong một thể chế chính trị nào cũng có thể khiến con người làm 'trò khỉ' để tồn tại.

*********

Một xu hướng mới mà gần đây các nhà lãnh đạo tương lai đều rất chú tâm đó là vấn đề về nhập cư. Tôi có đọc nhiều bài phân tích về quan điểm chính trị của 2 ứng viên hàng đầu cho chiếc ghế tổng thống vào đầu năm 2017 của nước Mỹ. Tất cả những lời tranh hùng trong giai đoạn bầu cử đều hướng về những điều cao cả nhất mà các vị muốn làm cho loài người, cụ thể đó là người Mỹ.

Ông Donald Trump thực sự làm tôi chú ý với phát biểu phản bác lại với chính sách nhập cư mà đối với người nước ngoài tới Mỹ thì cho là nhân bản, người bên trong thì khen ngợi như một chính sách hay để thu lời cho nước Mỹ. Đó là chính sách cho những bà mẹ mang bầu (Anchor Baby) có thể đến nước Mỹ để sinh con và tăng khả năng xin được giấy nhập cư cho con trong tương lai. Người Mỹ một thời gian dài rất biết kiếm lời từ kinh doanh "giấc mơ Mỹ". Trong cuốn Crippled America ông Donald Trump thể hiện ý đồng tình với chính sách này mà chỉ đề cao hình thức nhập cư mà người đến với nước Mỹ phải là những người có tài năng thật sự, có đóng góp lâu dài cho nước Mỹ chứ không phải những đứa trẻ "chưa được định nghĩa" như chính sách của TT đương nhiệm Barack Obama.

Nhiều tờ báo Mỹ và Âu Châu có cách gọi cho những công dân toàn cầu có trí tuệ, tiền bạc và địa vị xã hội là nhóm "high class" - bao gồm những con người mà đất nước nào cũng muốn có. Ở Việt Nam, một thời người ta nói đến công dân hạng A, theo cách tương tự và có thể ảnh hưởng từ Nga, đó là nhóm những người có đặc quyền, được ưu tiên về luật pháp và có "nhiều chế độ" riêng. Nếu vậy thì ở Việt có khoảng trên dưới 20 người bao gồm các uỷ viên BCT và những cốt cán đứng sau sẽ được xếp hạng A, nhóm hơn 1000 người uỷ viên trung ương Đảng đang làm các vị trí quan trọng theo các bộ, hoặc địa phương có thể sẽ là nhóm B+. Còn lại khoảng 90 triệu dân còn lại thì lần lượt là B,C,D... Gọi chung là nhóm con khỉ- phải lươn lẹo, chìm nổi với thế gian để được định nghĩa chính mình.

*********

Cách đây không lâu tôi đọc báo và thấy lời tự để trong ngoặc kép: "ai cũng muốn đi nước ngoài vậy ai sẽ xây dựng đất nước này đây?"- của một nữ chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan. Tôi cũng tự hỏi bản thân mình những điều tương tự và miên man trong một câu nói khác của bà chủ tịch quốc hội đương thời Nguyễn Thị Kim Ngân là "bạn đã làm gì cho đất nước này chưa?".

Chưa tìm được câu trả lời lớn cho một bức tranh chung, nhưng những sự thật này thì có thể lý giải cho sự do dự của phần nào đó những người Việt có suy nghĩ như tôi. Nơi tôi sinh ra có tên gọi là Liên Trì, thuộc xã Bình Kiến, tỉnh Phú Yên, có một cái ao sen lớn được lấy đặt tên cho địa danh cả hơn 100 năm nay. Đó là một vùng đất trù phú-yên bình như cách các cụ nhìn nhận về nơi đây. Nhưng chỉ mới đây thôi, các ao sen diện tích chiếm không tới 1 hecta đất, nhưng cũng bị quy hoạch và lấp bỏ trong một dự án bắt đầu khoảng hơn 15 năm nay. Tới giờ, ao sen mất, dự án chưa xây và chủ thấy những hàng rào lưới thép B40 giăng khắp vùng để bao đất.

Tôi không thể định nghĩa quê hương mình sinh ra cho ngững người bạn từ Sài Gòn, hay ngoại quốc. Nhưng các em trẻ tuổi hơn thì có! Có em từng giải thích với tôi về cái tên "Liên Trì" sở dĩ là cái quán nhậu ở gần đó có một cái ao sen cũng khá lớn, có tên là "Hồ Sen quán". Tôi nói với em là tôi biết rất rõ lai lịch của quán này, nó chỉ mới mở từ năm 2001 từ một tay có "máu mặt" thôi. Vậy là tôi nhận ra, có một thế hệ mới đang tự tìm định nghĩa mới cho riêng mình về những dấu chỉ đã đánh mất.

Một cái tên Liên Trì khác cũng vừa bị chôn vùi trong đống đổ nát. Đó là tên của một ngôi chùa ở thành phố này. Nó bị buộc phải di dời để nhường chỗ cho một dự án mới, mặc cho sự ngăn cản của giới chuyên gia, những nhà tâm linh và cả sư trụ trì. Sự thay thế không đến sự tự nguyện hay chí ít là sự thoả hiệp mang tính cởi mở cho một ngôi chùa 70 tuổi, mà lại đến từ sự ép buộc, đàn áp.

Mặc dù, cũng có nhiều người nhìn về những dự án mới với nhiều điều thích thua, nhưng tôi đã không thể thuyết phục mình cho những điều mới mẻ đó. Tôi đã lỡ nói về những giá trị cũ là "quê hương tôi", là "đất nước tôi" với bạn bè nước ngoài, giờ có còn bao nhiêu cái là của chữ tôi nữa đây. Giờ nó là đất nước của các ông, các bà công dân hạng A hoặc hạng B. Hãy tự tiếp tục định đoạt cho cái "đất nước" của riêng mình đi chứ sao lại quay ra hỏi "tôi đã làm gì?".

Sống từng ngày trên đất nước mà mình là một phần nhỏ trong đất, từng hơi thở từng nhịp đập con tim của mình tìm thấy sự đồng điệu trong đó ... cũng là cho đất nước này chứ đâu? Bởi vậy, từng ngày từng giờ trôi đi khi những thứ xảy ra xung quanh chủ là trò khỉ (monkeying) thì tôi làm một con khỉ thay cho con người. Còn phần người tôi đang gửi gắm nơi nao!?

*********

Cũng như mọi ngày tôi vẫn ngồi viết blog tại một quán cafe nhỏ vào những lúc rảnh rỗi. Hoạt động thường ngày của tôi vẫn chỉ xoay quanh chuyện: nghe-nói-đọc-viết với góc nhìn ngôn ngữ là chính yếu, bởi lẽ từ lúc dạy tiếng Anh tôi có xu hướng để ý nhiều hơn tới cách mọi người biểu hiện thông qua ngôn ngữ.

Tôi vẫn ngồi viết khi mà những ông giáo già xung quanh mình đang nói nhiều về chuyện tướng số và tử vi. Tôi thích nghe hơn là quan tâm tới chủ đề của câu chuyện nên nhiều khi tôi trải nghiệm khác đi với những gì được nói ở đây.

Câu chuyện cho một ngày cuối tuần.

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

Trí khôn dưới chân và cục đất gắn trên đầu

Mở đầu với tựa hơi quái lạ và không mấy suông chữ sở dĩ là do tôi đang nghĩ tới câu chuyện ở một đất nước Nam Mỹ xa xôi và quy chiếu tới những con người quanh mình để thấy cái rối rắm của trí nhân và cái giá có thể nhìn thấy được cho những quyết định của riêng mình và trò chơi đang diễn ra xung quanh.

Hôm nay (15/9) các tờ báo lớn trên thế giới đồng loạt đưa tin về sự suy sụp kinh tế của Venezuela dẫn tới mối nguy vỡ nợ mà nhiều chủ nợ đang thấp thỏm và bàn tính mưu kế để dàn xếp cho một nền chính trị mới cho đất nước này sau 16 năm với cuộc chơi có tên gọi là "chủ nghĩa xã hội" được Hugo Chavez khởi xướng năm 1999.

Kiểu não toàn đất chắc hẳn không dành cho lãnh đạo của đất nước Nam Mỹ này và cũng không dành cho giới lãnh đạo những nước khác có cùng thể chế chính trị. Thực ta, họ quá khôn trong toan tính chính trị khi các đối thủ thất thế và nhanh chóng quốc hữu hoá tài sản để giành lấy quyền quyết định về cho đảng lãnh đạo và thong thả nhìn về lợi ích của riêng mình. Tôi đang nghĩ tới phần đông người còn lại, họ luôn bị cuốn hút bởi những mỹ từ về "quyền bình đẳng", "quyền làm chủ" và đồng ý xây dựng thiên đàng với quỷ dữ.

Đó quả là một canh bạc, mà người dân đặt cược tài sản, tính mạng và cả tiền đồ của mình cho nhà cái. Quá dễ để những người là tụ con trong canh bạc đó có cảm giác rằng tụ cái đang làm mọi điều trong sạch khi xào bài ngay trước mắt mình. Có lúc thắng, có lúc thua tuỳ thuộc vào độ "ban phước" của thằng bồi. Nhưng hơn hết ai cũng nhận ra là nhà cái lúc nào cũng kiếm bộn và sẵn sàng mở thêm nhiều sòng khác để mân mê con bạc!

Trở lại câu chuyện đang diễn ra ở Venezuela khi mà những là phiếu nâng dỡ bộ óc chứa sạn của Hugo Chavez vào giai đoạn thất thế của chính trường khi kinh tế lao vào khủng hoảng và ảnh hưởng nghiêm trọng tới giá dầu thô ở nước này. Thể chế cũ với thị trường tư hữu các nguồn khai thác và sản xuất dầu không thể biện hộ cho nhu cầu tiêu dùng đang lên trong khi tiền trong túi của dân chúng thì đang cạn dần. Đảng của ông Hugo đã thắng khi ông tạo ra một niềm tin lớn về con đường xã hội chủ nghĩa và quản lý 'an toàn' nguồn dầu thô này bằng cách quốc hữu hóa chúng.

Bây giờ, giá dầu thô một lần nữa suy trầm nằm ngoài toan tính chính trị và người dân nơi đây mới thực sự cảm nhận thiên đường thực sự là như thế nào? Tính tới giai đoạn này, thế giới nhìn về đất nước và con người nơi đây với hình tượng 'con buôn thất bại'- hiểu theo nghĩa hẹp khi mà họ đã phải qua nhiều lần vỡ nợ và chu kỳ đổ vỡ kinh tế càng về càng ngắn sau khi ông Simon Bolivar giải phóng đất nước từ đề quốc Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 19 và độc tài toàn trị như là một đặc sản của đất nước giàu tài nguyên nhất lục địa Nam Mỹ này.

Người dân là vậy, cho dù giai cấp được định nghĩa theo kiểu nào đi nữa thì số dân nghèo nhất, đông nhất luôn luôn là nhóm sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất cho mỗi khủng hoảng mà đất nước đó xảy ra. Dẫu vậy mà họ vẫn luôn bị 'trùm đầu' bởi nhiều cái bọc khác nhau và mãi vẫn chưa hiểu nổi điều trái ngang.

Người dân nghèo hiếm nghĩ mà một khi được thôi thúc từ giới "làm chữ" thì họ có thể tưởng tượng rằng họ sẽ trở thành người làm chủ thật sự bằng cách phá bỏ đi quyền lãnh đạo của tầng lớp tri thức thay vì chỉ cần giành lấy quyền cầm lá phiếu trên tay để quyết định người lãnh đạo mình tốt nhất. Họ rất dễ bị lợi dụng bởi những nhóm lợi ích trong xã hội. Chính sách luôn được mong đợi để bảo hộ cho  tầng lớp thấp-chiếm đa số lá phiếu, nhưng đó phải là một chính sách thực tế và dài hạn chứ không phải là những tác phẩm về những nấc thang lên thiên đàng. Thực tại vẫn là thực tại và có chăng đó là hố sâu của sự u ê và địa ngục của niềm tin bị đánh mất.

Trí khôn của tôi đâu?

Đáng lẽ ra con người chúng ta phải xem nó là thứ gắn trên đầu, nhưng không! Phần đông vẫn nhìn về "rừng vàng biển bạc", nhìn về nguồn tài nguyên thiên nhiên mà lãnh thổ của mình bạn tặng và xem như đó là bửu bối cho dân tộc mình. Đó quả là "dòng sữa ngọt" nuôi dưỡng những 'em bé của thời đại' mãi không bao giờ lớn nổi.

Lấy một vài nước làm ví dụ, chính phủ Trung Quốc nhìn về kích thước lãnh thổ mà hãnh diện là trung tâm của vũ trụ; Việt Nam tự hào có vị trí đắc địa ở Đông Nam Á với bở biển dài, hanh thông và trữ lượng khoáng sản phong phú, đa dạng; trong khi đó Venezuela luôn thấy trữ lượng dầu mỏ nằm dưới chân mình là một gia tài lớn nhưng cả ba nước đều đang phải loay hoay giải quyết các nhu cầu cơ bản của người dân về cái ăn cái mặc và chỗ ở hàng ngày trong khi đó người dân ở các nước khác thì quan tâm nhiều hơn tới xây dựng giá trị cá nhân và những kết nối cộng đồng ý nghĩa.

Nhìn thấy gì khi những chiếc iPhone được bán ra với khoảng 1000 USD cho mỗi phiên bản và liên tục có sản phẩm mới thì ở cách đó không xa trong cùng lục địa nhưng khác lãnh thổ mỗi thùng dầu ở đây có giá bán khoảng 80 USD trong 30 năm trước và duy trì ở mức trên dưới 40 usd/ thùng như hiện tại. Với trữ lượng khoảng 300 tỷ thùng dầu đứng thứ nhì trên thế giới cả chính quyền và người dân Venezuela không tưởng tượng được ngày họ phải "đói ăn" như ngày hôm nay dẫu cho bài học về những lần khủng hoảng giá dầu vẫn cứ thường được nhắc đến.

Một khi đầu chứa đất thì nó sẽ hóa sạn?

Khi nhìn khủng hoảng xảy ra ở xứ sở của những người đẹp, thì khả năng mở ra một cấu trúc xã hội mới tốt đẹp hơn hay chính trên cơ thể héo úa tồi tàn của cô đào lỡ xuân lại tiếp tục được tô son trét phấn. Đó sẽ là câu chuyện của tương lai nhưng vẫn có nhiều manh mối để nhìn thấy trước một số vấn đề.

Như đã nói trong phần mở đầu, Trung Quốc đang là nước sốt sắn nhất trong tình trạng mà nước đối tác dầu mỏ lớn là Venezuela đang lâm vào khủng hoảng kinh tế lẫn chính trị. Vì muốn đảm bảo ổn định về mức tiêu thụ năng lượng dài hạn để kéo nền kinh tế của mình đi lên Trung Quốc đã xây dựng mối quan hệ sâu vào bên trong nhà nước Venezuela để có được lợi thế trong việc mua bán dầu mỏ nơi đây.

Một mặt báo chí mới đây ghi nhận giới doanh gia Trung Quốc đang làm ăn ở đây đang bỏ của chạy lấy người. Tuy nhiên, nhìn xa hơn một chút, kể từ năm 2007 ông Hugo Chavez đã đồng ý nhận tiền của Trung Quốc thông qua ngân hàng Phát triển Quốc gia (viết tắt là CDB) để giải quyết những cục u của nền kinh tế và tuyên bố đuổi cổ các doanh nghiệp Âu Mỹ đang khai thác và sản xuất dầu mỏ ra khỏi nước và tiếp nhận những mối liên kết ngầm từ Trung Quốc thông qua quỹ nợ gán trực tiếp bằng dầu với khoảng 430 nghìn thùng và cổ phiếu nhà nước. Khi mọi chuyển vỡ lỡ từ cách làm ăn bất minh bạch từ hai quốc gia này, kèm với sự phẫn nộ của người dân thì khả năng Trung Quốc sẽ thỏa hiệp với những nhân vật lãnh đạo mới để kỳ vọng lấy lại số tiền cho vay hoặc chí ít là duy trì kênh đối tác về dầu mỏ với mức chia phần hợp lý hơn.

Rõ ràng là trong tất cả các phép tính từ kinh tế cho tới chính trị thì người dân hoàn toàn không ý thức được những gì đang xảy ra ở thượng tầng mà nó thực sự ảnh hưởng tới từng bữa ăn và cả những cuộn giấy vệ sinh trong mỗi nhà tắm. Không một nhóm dân chủ nào sắp tới có thể ngay lập tức đảm đương được trọng trách vực dậy một nước Venezuela như thời kỳ giàu có trước đây, nhưng dường như khả năng rất cao là họ sẽ tiếp tục mang đến những mỹ từ để thu hút lá phiếu của người dân và âm thầm thỏa hiệp để tiếp tục duy trì một dạng thể chính trị mới mà nguồn tài nguyên dầu mỏ chính là trở lực lớn cho mọi sự thay đổi.

Thế hệ lãnh đạo mới sẽ có những bước cải tổ để cân bằng giữa quyền lực và lợi ích xã hội mà người dân Venezuela được hưởng bởi thế khả năng có một chu kỳ phát triển dài hạn và bền vững lấy "trí thức" làm trọng vẫn còn là một bài toán chưa có lời đáp. Cục đất trên đầu sẽ chưa được thay thế mà có khả năng sẽ tự thạch hóa và sẽ kéo con thuyền Venezuela đi thêm những chặn đường kế tiếp.



Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

Suy nghĩ mông lung về thế giới phẳng và thế giới đại đồng

Khoảng trên dưới chục năm cách đây tôi bị mê hoặc  cuốn "Thế giới phẳng"  (The world is flat) của tác giả Thomas Friedman cũng giống  đứa trẻ đứng bên bờ tre làng nhìn xuyên qua mấy dặm ruộng và thấy thấp thoáng những căn nhà lầu. Quả thực đó là một niềm tin bồi tụ khi mọi thứ dần thu hẹp hơn khi đứa trẻ trong tôi lớn thêm và được đi học gần hơn những căn nhà ấy. Đến lúc cầm cuốn sách đó trên tay sau khi bị nhồi liên tục biết bao nhiêu mỹ từ trên báo chí, truyền thông TV ... Niềm tin về một thế giới phẳng lớn dần sau khi internet dần phổ biến và chiếm lĩnh truyền thông và các nước ngày càng tham gia vài nhiều khối liên kết hơn.

Tôi vốn mơ mộng theo kiểu mụ mỵ, tự sướng như những người Việt xung quanh rằng Việt Nam là một trong những nước hạnh phúc nhất trên thới giới. Và khi nghe tiếp tới những điều nằm bên kia của niềm đại mong ước cân bằng hơn cho người Việt giữa hạnh phúc và tiền bạc. Một cái vốn dĩ có sẵn của riêng mình và một nửa tuyệt vời, không giới hạn từ kiến thức làm giàu từ Âu châu, xứ Mỹ ... Có ai si mê hơn tôi không? Người ta chơi ma tuý đá, hút cần sa một vài giờ sau khi bay bướm với nàng tiên trong tâm hồn thì họ quay lại với cuộc sống thực tại kiếm tiền để tiếp tục còn tôi vẫn cứ mãi dính trong một giấc mơ dài ngày!

Chưa dừng lại ở đó, thế giới này dường như không thiếu những đại mỹ từ khác. Điều tiếp nối trong cơn mê hào sản từ người Mỹ gieo trồng khắp nơi như loài cỏ non có vị chan chát đó là "Thế giới đại đồng" (the united world). Từ một niềm tin mơ mộng của một tác giả viết sách xuất khẩu niềm mơ ước từ Mỹ sau khi một vài phần trên thế giới tìm thấy nhau qua mạng internet. Phần còn lại liệu có đủ phẳng để nhìn xa? Ngay trong một điều hiển nhiên về quang học rằng chúng ta có thể nhìn xa vô tận có ảnh hưởng tới cộng đồng ở góc độ mường tượng hơn là khoa học vốn dĩ của nó. Bạn nhìn được gì từ những phần thuộc Phi Châu, một vài khu vực Nam Mỹ, ở Triều Tiên hay ngay cả internet được phổ dụng hơn ở Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản ...thì liệu bạn biết tới bao nhiêu phần trăm những điều phổng thông nhỉ. Tôi tin là tôi phải phải đợi truyền thông, hoặc những tác giả, dịch giả viết tiếp những trang thông tin mới để giải tiếp những điều căn bản được xem là đủ phẳng.

Ở những diễn biến khác trong khi Bill Gates và những tỷ phú khác bên cạnh góp điện cà dịch vụ y tế cho những mảng tối khác của thế giới, họ cũng đang góp gạch để mọi người đủ cao và nhìn thấy nhau trên không gian mạng nhưng còn quá nhiều chỗ lõm và nhấp nhô. Thần tượng của giới trẻ Mark Zuckerberg thì nói về một thế giới siêu kết nối và mơ ước về một thế giới ít biên giới, cởi mở hơn về nhập cư với niềm tin rằng một cộng đồng sinh hoạt hoàn toàn qua internet với ứng dụng mới về công nghệ thực tế ảo. Phát biểu gây chấn động trong báo  chí rồi dội xuống giới nghe nhìn về việc sẽ chi ra 90% gia tài để làm thế giới tốt đẹp hơn thì Mark cũng không quan tâm mấy tới vài chục triệu đô la để di dời 5 căn biệt thự xung quanh mình để có một dinh thự một cõi cho riêng mình ở Nam Cali. Còn nữa, ngoại trưởng John Kerry và đồng thời là triệu phú (có hàng trăm triệu đôla nhờ thừa hưởng từ gia đình vợ), người được báo chí ca tụng là có thiên hướng hoà hảo và chia sẻ quan điểm về nới lỏng yêu cầu về nhập cư vào Mỹ như cách TT Mỹ Barrack Obama thường nói, ông có lẽ không cao hứng mấy khi nói về việc tìm bến đỗ cho du thuyền riêng của mình ở một cảng biển khác để giảm bớt vài trăm nghìn tiền thuế mỗi năm. Liệu ông có thấy có gì đó nhô ra trong túi quần trong thế giới phẳng này?

Niềm tin về thế giới phẳng, hay những thông điệp về thới giới đại đồng có lẽ bắt đầu từ những con người mơ mộng nhất, và lan rộng ra một phần nào đó trên thế giới. Những công dân hạng một và những chánh trị gia quyền năng mau chóng tìm thấy sự tương thích và gần gũi. Thật không khó hiểu khi họ liên tục là nguồn phát tín hiệu bất tận cho truyền thông. Cuối cùng là tôi, người gõ gõ mấy cái này cho bạn đọc là tầng cuối cùng nghe thấy những mỹ từ mất ăn mất ngủ đó. Nhưng xin lưu ý rằng hãy trừ hao, trừ bì những gì được nghe từ giới chính khách, những nhà mộ điệu và bầy kềnh kềnh truyền thông.

Tôi vẫn tin rằng thế giới này còn nhiều góc khuất, vùng lõm mà bạn phải liên tục thay đổi hệ quy chiếu để nhìn về nó. Mảng tối nhiều khi còn nhiều hơn mảng sáng và bạn phải giải quyết từng chuyện cụ thể theo bối cảnh của riêng nó.


Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Phú Yên giống gái thành thị quê mùa hay cô thôn nữ miền quê


Vừa rồi thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc có chuyến thăm tỉnh Phú Yên và đăng đàn với một loạt bài báo nói về tự tụt hậu của tỉnh Phú Yên so với sự phát triển chung của đất nước. Chưa hiểu đằng sau câu nói của ông có ý răng đe, trách móc hay muốn thúc đẩy tỉnh thành này có những bước phát triển với dàn lãnh đạo mới trong thời gian sắp tới, nhưng tâm lý chung của phần lớn những người con đất Phú là có chút tủi thân, có chút hờn dỗi với lãnh đạo tỉnh nhà. Sau đó, cư dân mạng trên Facebook chia sẻ nhau một bài viết "gỡ vốn" cho người xứ nẫu về một vẻ đẹp thôn quê như một cô gái chưa dính chàm như những tỉnh thành ồn ào xung quanh như Khánh Hòa hay Bình Định.

Nhân dịp mọi người chiếu cố nhắc đến miền đất nơi tôi sinh ra và lớn lên nên tôi sẽ thử nhìn quê nhà theo một số hướng để xem thực sự Phú Yên đẹp chỗ nào, tụt hậu ra làm sao trong hai chiều hướng được dư luận thực sự quan tâm. Nhưng trước hết dù có là một nhà chiến lược gia trong phát triển kinh tế địa phương hay là một kẻ chiêm ngưỡng một vẻ đẹp nào đó, thì yếu tố địa dư và con người ở một vùng đất sẽ là căn nguyên cho mọi hiện tượng mà mọi người có thể chỉ nhìn thấy phần ngọn.

Về địa dư

Phú Yên là một tỉnh thuộc miền Trung cách khá xa TP HCM (hơn 500 km) và rất xa so với trung tâm hành chính toàn nước đặt tại Hà Nội. Hai nơi được xem là: 1 là đầu máy của nền kinh tế Việt Nam, 1 nơi cầm quyền quyết định mọi chính sách của các địa phương. 3 mặt giáp núi và đèo hiểm trở bậc nhất (cụ thể: phía tây giáp Đăk Lăk, Gia Lai, phía nam giáp Khánh Hòa, phía bắc giáp Bình Định), một mặt giáp biển (mặt nước nông, và không có đảo chắn gió ở thủ phủ Tuy Hòa). Diện tích đất nông nghiệp của Phú Yên được đánh giá là có độ vuông vức và đủ màu mỡ để phát triển lúa nước, và hoa màu (được sự bồi tụ phù sa của sông Ba phía nam và sông Cầu phía tây).



Về con người

Địa dư ngăn sông cách núi, và hở hang ở phía đông nhưng lại có khả năng phát triển nông nghiệp tốt nên người dân Phú Yên khá an lành trong đời sống bám liền với ruộng đồng và nông nghiệp trong suốt chiều dài lịch sử của tỉnh. Và đúng như tên gọi của nó Phú- trù phú, Yên- yên bình, người dân ở đây không cảm thấy thiếu thốn và phải di cư đến những nơi khác để làm những công việc khá nặng nhọc như làm công nhân nhà máy cho các tỉnh phía Nam, hay phiêu bạc kiếm cơm bán vé số nhiều như những tỉnh miền Trung khác. Nhưng sống trong địa dư có tính ngăn cách nên người Phú Yên cũng không cởi mở nhiều trong suy nghĩ để tạo ra những thay đổi trong cộng đồng người ở đây. Và đây cũng là yếu điểm cơ hữu để đón nhận những trào lưu phát triển chung từ nơi khác.

Thử nhìn xa hơn một chút 

Nhìn chung về lịch sử qua nhiều giai đoạn con người và phong tục tập quán của người Phú Yên không quá bị xáo trộn như những địa phương khác. Ngay cả vua Lê Thánh Tông khi đã chiếm được, nhưng cũng không cho lính tới canh gác và cũng không xem đây là một vùng đất có nhiều lợi ích. Theo sử có ghi Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đánh Chăm Pa đến tận đèo Cả. Tuy nhiên sau đó Lê Thánh Tông chỉ sát nhập vùng đất từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Vùng đất Phú Yên vẫn thuộc quyền quản lý của Chăm Pa với tên gọi Ayaru. Những năm trong cuộc chiến chống Pháp-Mỹ, Phú Yên được biết đến với cảng biển Vũng Rô với những con thuyền không số. Sau năm 1975 Phú Yên vẫn thuộc tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên và Khánh Hòa, với thủ phủ chính là Nha Trang. Năm 1989 thì tách ra thành 2 tỉnh, Tuy Hòa trở thành trung tâm hành chính của tỉnh Phú Yên.


Nhìn lại lịch sử cận đại

Từ khi Đảng lãnh đạo với đặc thù quản lý theo hướng nhánh từ trung ương tới địa phương. Nghĩa là phần lớn quyết định quan trọng từ cấp nhà nước truyền đạt xuống. Và Phú Yên có lẽ luôn là địa phương áp dụng các hình thức mới, cách thức mới, kỹ thuật mới chậm hơn so với những địa phương khác. Nhưng may thay trong nhiều chệch choạc mà những tỉnh thành khác mắc phải, đã tạo nên sự "chùn chân" nhất định trong nhiều quyết định của các đời lãnh đạo tại địa phương. Vì thế, có những giá trị có thể còn nguyên vẹn không hẳn đến từ quyết định đúng đắn của người dẫn đầu, mà chỉ đơn giản là đi sau, làm sau nên cái gì chưa biết nên như thế nào và cuối cùng là không làm.

Không như các lãnh đạo ở các địa phương khác đón đầu trong các làn sóng đầu tư từ trong nước (cả tư nhân và nhà nước) và cả doanh nghiệp nước ngoài, thì Phú Yên có vẻ vẫn còn "ơ thế cơ ah" và chưa biết gì về những cách làm của những "tay chơi" thực sự khác. Nói cho khác hơn, cho dù có muốn làm một vụ gì đó lấy tiếng theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực thì người Phú Yên đương thời cũng không hẳn có thể làm được.

'Ăn chắc mặc bền' và cho con cái đến trường với niềm hy vọng đỗ đạt để sau này có công việc ổn định chỉ là một bước thúc đẩy duy nhất mà cả cộng đồng người Phú Yên muốn làm. Nhưng có vẻ chính cái suy nghĩ khá cũ đó không giúp Phú Yên có nhiều nhân tài trẻ tuổi và cũng không nhiều những người có tinh thần cầu tiến để mang lại sự thay đổi vượt bậc. Nhìn chung, người Phú Yên được giáo dục căn bản khá đầy đủ và không nổi tiếng với những vấn nạn về giáo dục, nhưng để tìm kiếm những cách làm mới từ những con người mà cái cốt lâu đời dính chặt vào địa thế đặc thù như vậy quả thật không có nhiều hy vọng.

Nhưng có phải hoàn toàn như vậy?

Mặc dù gần đây tỉnh có nhiều điều hướng về thu hút người giỏi trong tỉnh và ưu tiên cho người gốc Phú Yên, nhưng từ năm 1975 những đồng chí từ Bắc vào lãnh đạo tỉnh nhà cũng mang tới những "làn gió mới" trước khi có những tai tiếng và nhường sân chơi lại "những người học việc" mới. Đặc biệt là cách "ăn chơi" sao cho ngang bằng với các anh bạn hàng xóm như Nha Trang, Quy Nhơn. Cũng có một số dự án được cò mồi giới thiệu (như dự án Nam Tuy Hòa) và cũng mang tiếng trong nhiều công trình xây dựng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Nhưng độ nổi tiếng để mọi người ở cả nước chú ý thì vẫn chưa thực sự đủ tầm.

Một vài doanh nghiệp địa phương cũng mở rộng "dây nhợ" ra khỏi tỉnh như: công ty vận tải Thuận Thảo, tập đoàn xây dựng Hải Thạch, .... phần còn lại hầu hết là các hộ kinh doanh cá thể về quán cafe, nhà hàng, khách sạn. Có rất ít những công ty tư nhân liên quan tới các ngành nghề mới như: công nghệ thông tin, thương mại hay dịch vụ cao cấp. Có lẽ đây cũng là những kênh liên lạc duy nhất giúp các chính khách trong tỉnh kết nối được với các thân hữu cấp chính phủ. Nhưng quả thật là không mạnh như những tỉnh thành khác với khá nhiều doanh nghiệp đình đám được chính phủ đặc biệt quan tâm.

Nhưng chừng ấy phương tiện cũng đủ để người trong nhìn ra kẻ ngoài, và ở ngoài nhìn được đôi điều bên trong làm gì. Ít nhất, những trào lưu cả tích cực và tiêu cực cũng được áp dụng ở một mảng nào đó mặc dù còn nhiều e dè do đặc thù cố hữu tích tụ nhiều năm.

Như vậy, nếu chọn hình ảnh một cô gái để hình dung về một bức tranh chung thì bạn thấy Phú Yên giống gái thành thị quê mùa hay cô thôn nữ miền quê?. Bạn có yêu ai trong số 2 hình tượng đó không?

Bài tiếp theo: Phú Yên nên làm gì để định hướng phát triển dài hạn

Tác giả: Ce Phan