Thứ Hai, 15 tháng 2, 2021

Mùa xuân và giáo dục trẻ em Việt Nam

 Mùa xuân Việt Nam đã lan toả những năng lượng tích cực để mang những trái tim Việt lại gần nhau hơn

Đã từ rất lâu, tôi đã viết và chia sẻ những câu chuyện về giáo dục trẻ em ở Nhật Bản và Vnexpress chính là nhịp cầu đáng tin cậy mà tôi lựa chọn để truyền tải những thông điệp tích cực đến mọi người ở Việt Nam. 

Cách đây chừng một tháng, tôi không ngờ rằng những mong muốn truyền đạt lại những kiến thức, kỹ năng về giáo dục trẻ em mà tôi tích luỹ được từ công việc giảng dạy tại Nhật Bản lại được các bạn đồng nghiệp tại Việt Nam ủng hộ rất nhiệt tình. 


Tôi cảm nhận được mùa xuân ấm áp đã mang chúng tôi lại gần nhau hơn. Chúng tôi, giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học và giáo viên dạy tiếng Anh thực sự muốn thay đổi bản thân mình và học những kiến thức mới về giáo dục trẻ em ở những đất nước tiên tiến. 

Nhìn về tương lai của những đứa trẻ rất đáng yêu ở Việt Nam, tôi và đồng nghiệp đến từ Nhật Bản, Úc đã tạo ra một môi trường chia sẻ kiến thức đến giáo viên ở Việt Nam. Chúng tôi chia sẻ tất cả mọi vấn đề liên quan tới môi trường học của các em và những phương pháp mới để nâng cao chất lượng giáo viên. 

Thế là, một nhóm với quyết tâm trên đã ra đời và chúng tôi tự đặt tên là "ƯƠM MẦM GIÁO VIÊN VIỆT" nơi mà chúng tôi trao cho nhau những giá trị trên tinh thần tình nguyện. Những giáo viên đang sống ở nước ngoài như tôi cũng luôn mong muốn có thể làm điều gì đó cho quê nhà,   Wx mđặc biệt là cho trẻ em. Vì thế, chúng tôi đã đến với nhau để tạo ra những buổi học miễn phí cho giáo viên tại Việt Nam.

 NHÓM ƯƠM MẦM GIÁO VIÊN VIỆT: https://www.facebook.com/groups/uommamgiaovienviet

Sau một vài buổi học đầu tiên, tôi cảm nhận được niềm vui thực sự từ sự chia sẻ và tôi nghĩ những người đồng hành cùng tôi cũng có cảm nhận tương tự. Có những thứ dường như rất nhỏ, nhưng nó lại là những kiến thức hay giúp cho giáo viên cải thiện cách nhìn của mình về giáo dục trẻ em. 

Chẳng hạn, giáo viên Việt Nam thường hay nói với học trò "Là con trai, em không nên khóc như thế" hoặc "Là con gái, em không nên nói như thế". Đó là điều mà giáo viên nên tránh nói với học trò. Hoặc một điều đơn giản hơn mà giáo viên ít để ý là khi dạy về ước mơ hoặc những công việc trong tương lại, mặc nhiên hình ảnh minh hoạ thường là: nam sẽ là kỷ sư, bác sĩ, phi công ..., còn nữ thường là y tá, cô giáo, nữ tiếp viên .... Đó là cách minh hoạ không đúng và cần tránh. 

Đó là một vài ví dụ mà tôi đưa ra trong rất nhiều tính huống mà thầy cô có thể đang mắc phải những lỗi liên quan tới quyền trẻ em hoặc sự kỳ thị ở học đường. Và còn có rất nhiều những kiến thức khác mà giáo viên ở Việt Nam cảm thấy rất mới mẻ. 

Sự phản hồi của thầy cô cũng cho tôi biết được tình hình giảng dạy thực tế ở trong nước để tôi hiểu hơn và có thể chọn lọc những điều mà chúng tôi nghĩ có thể áp dụng được ở Việt Nam. Sự khác biệt giữa các nền giáo dục là điều rất rõ rệt nhưng cũng có nhiều điều từ những nền giáo dục khác có thể áp dụng vào môi trường ở Việt Nam. 

Quả thật là sự tương tác của chúng tôi là điều ngoài mong đợi. Sự hiếu học của người Việt chính là bản lề để tạo ra sự thay đổi và chúng tôi tin rằng sẽ mang lại những điều tốt đẹp hơn cho tương lai. 

Một mùa xuân nữa lại về, mặc dù tôi không được hưởng không khí Tết một cách trực tiếp như mọi người ở Việt Nam nhưng tôi đã cảm thấy ấm lòng. Tôi biết rằng mọi người sẽ cùng cố gắng trong năm mới để chúng tôi có thể đi xa hơn và làm được thật nhiều điều ý nghĩa. 

Ce Phan

Bài viết cũng được đăng trên báo Vnexpress: https://vnexpress.net/mua-xuan-va-giao-duc-4234980.html

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2021

Ước mơ về môi trường giáo dục tốt hơn cho trẻ em Việt Nam

Cũng như bao giáo viên khác, tôi từng có những mơ mộng về một lớp học, một trường học mà ở đó có thể khắc phục được tất cả những điểm yếu của những ngôi trường mà tôi từng học qua khi ở Việt Nam. Tới bây giờ tôi vẫn còn ám ảnh về những toilet chật hẹp, thiếu ánh sáng và bẩn trong suốt 12 năm học phổ thông. Đáng sợ hơn nữa là những giờ học rất chán, nặng thông tin, thiếu sự mường tượng mà học sinh phải ráng ghi nhớ một cách máy móc. 

Tôi đã tự tìm hiểu về những nền giáo dục khác qua mạng internet và qua sách nhưng quả thật rất khó lòng mường tượng được một ngôi trường giáo dục tốt hơn sẽ như thế nào. Những điều tôi khắc khoải mãi cũng được giải đáp từng bước khi tôi đặt chân vào môi trường ở Nhật Bản với vai trò là một giáo viên dạy tiếng Anh. Từ những điều rất nhỏ như là toilet của trường cho tới cách quản lý và vận hành một cơ sở giáo dục là một chân trời rất khác trong tôi. 

Từng ngày trôi qua tôi chiêm nghiệm từng chuyện giáo dục dựa trên ký ức cũ về Việt Nam và những khác biệt tại Nhật Bản, và hình ảnh về một môi trường giáo dục tuyệt vời như thế này một ngày nào đó sẽ hiện diện nhiều hơn ở Việt Nam. Quả thật tôi tin rằng trẻ em Việt Nam rất đáng có được những gì tốt đẹp nhất mà người lớn cần làm cho chúng. 

Đồng nghiệp của tôi đến từ rất nhiều nước và cùng hoà nhịp vào giáo dục Nhật Bản dựa trên sự cởi mở trong định hướng giáo dục nước này trong những năm gần đây. Chúng tôi cùng chung tay cho một mục tiêu chung là đào tạo những đứa trẻ trở nên mạnh khoẻ, lành mạnh, hiểu biết và chia sẻ những giá trị cộng đồng. Nhưng có lẽ những tâm sự của tôi về hiện trạng giáo dục trẻ em tại Việt Nam làm ngạc nhiên rất nhiều đồng nghiệp. Họ đều mong rằng Việt Nam sẽ sớm có nhiều hành động hơn nữa để cải thiện môi trường giáo dục, đặc biệt là cho các cấp học nhỏ. 

Mọi sự so sánh đều rất khập khiễng, nhất là sự chênh lệch trong thu nhập của người dân ở hai nơi rất khác nhau. Tôi tránh việc phê phán và chê trách về những điểm khó khăn mà nền giáo dục của chúng ta đang trải qua, nhưng những gì tốt hơn cần chia sẻ thì lúc nào cũng có vẻ khó nghe và dễ bị gieo tiếng xấu. Tôi là giáo viên nên tôi biết những chừng mực mà một giáo viên có thể chia sẻ về nghề nghiệp của mình. Điều này sẽ còn là một khó khăn lớn hơn nữa nếu một giáo viên đặt trong bối cảnh ở Việt Nam. 

Chắc hẳn là sẽ còn nhiều giáo viên người Việt đang sống ở đâu đó khắp nơi trên thế giới này sẽ luôn nhìn về Việt Nam và mong muốn đóng góp một điều gì đó cho quê nhà. Tương tự thế, cũng có rất nhiều giáo viên trong nước vẫn luôn giữ cho mình một mơ ước về một môi trường giáo dục tốt hơn cho trẻ em và giáo viên Việt Nam. Một môi trường giáo dục mà nơi đó giáo viên được sự tôn trọng và được đánh giá đúng thông qua một mức lương tốt hơn, nơi đó cũng là nơi mà các em học sinh được sống trong một bầu không khí lành mạnh, cởi mở và phát triển. Liệu rằng mơ ước đó có quá xa tầm tay? Tôi tin chắc là sẽ làm được nếu như chúng ta thực sự muốn làm. 


Ce Phan 



Thứ Hai, 18 tháng 1, 2021

Điểm qua một số phương pháp dạy tiếng Anh cho trẻ em mầm non (dưới 7 tuổi)

Bên dưới đây là những phương pháp phổ biến được áp dụng trong việc giảng dạy tiếng Anh như ngôn ngữ 2 dành cho các em thiếu nhi trước khi bước vào chương trình Tiểu học. Những phương pháp này được 2 tác giả Maria and Jesus tại trưởng ĐH King Juan Carlos điểm qua trong nghiên cứu "Những phương pháp giảng dạy tiếng Anh dành cho thiếu nhi" (English teaching methodologies for early childhood education).

Mình điểm qua từng phương pháp và sẽ bàn luận về dựa trên kinh nghiệm giảng dạy thực tế của mình thông qua trang Facebook: https://www.facebook.com/cephanafterschool 




1. Phương pháp học ngôn ngữ gần gũi (CLL - Community Language Learning)

Phương pháp học ngôn ngữ gần gũi cố gắng xây dựng mối qua hệ cá nhân mạnh mẽ giữa giáo viên và học sinh mà không có bất kỳ ranh giới học tập nào, sử dụng tiếng mẹ đẻ sau đó dịch nó sang tiếng Anh và ưu tiên lặp lại nhiều lần và từng bước làm quen với các khái niệm mới (theo tác giả Krashen, 1982).

2. Phương pháp lược giản từ (Silent Way)

Trong phương pháp lược giản từ, giáo viên cố gắng nói ít từ nhất có thể để giúp các bé cảm thấy thoải mái và tìm ra những từ phù hợp để bày tỏ suy nghĩ. Ngay cả khi một em nói "Me go toilet" (Con đi toilet), thì sẽ kiểm soát được những gì các em đang cố gắng nói tốt hơn mà không cần sử dụng tiếng mẹ đẻ.

3. Phương pháp trực tiếp (Direct  Method)

Đây là phương pháp sử dụng hoàn toàn bằng tiếng Anh. Giáo viên sẽ hỏi bằng tiếng Anh và học trò được khuyến khích trả lời bằng tiếng Anh (chỉ đôi khi sử dụng tiếng mẹ đẻ trong những trường hợp cần thiết).

4. Phương pháp nghe hiểu  (Audio-lingual  method)

Đây là phương pháp học tiếng Anh việc thích nghi với những sinh hoạt thường nhật trên lớp học. Các bé đã làm quen với các hoạt động đó và dễ dàng hiểu được những chỉ dẫn của giáo viên. Phương pháp này nhấn mạnh việc nghe hiểu trước việc biết nhận diện ngữ vựng. 

5. Phương pháp "Tiếng Anh dễ lắm" (Suggestopedia method)

Phương pháp học tiếng Anh này giúp các bé tránh cảm giác sợ học tiếng Anh. Phương pháp này loại bỏ những phần không cần thiết trong cách giảng dạy thông thường và thay vào đó là những hoạt động dễ tiếp cận hơn ví dụ như: hát, chơi trò chơi, đọc truyện. 

6. Phương pháp giao tiếp theo tình huống (CLT - Communicative language teaching method) 

Phương pháp hướng đến việc tạo ra các tình huống giao tiếp theo các bối cảnh như trong lớp học, siêu thị, bệnh viện... Các tình huống thực tế được đề cập đến cũng như có những khách mời để tạo cảm giác giao tiếp thực tế hơn cho các em. 

7. Phương pháp tiếp cận tự nhiên (Immersion  method hay có tên khác là Natural Approach)

Phương pháp Immersion hướng các em đến một cách học tiếng Anh như nó là ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và xem nó như một phương tiện để "sống còn" ở môi trường 100% nói tiếng Anh. Phương pháp này  tương tự như phương pháp Natural Approach được phát triển bởi bởi Krashen (1982). Sẽ không có chỉnh sửa lỗi sai vì các em sẽ mắc lỗi một cách tự nhiên.

Sự khác biệt giữa phương pháp tiếp cận tự nhiên và phương pháp giao tiếp theo tình huống (6) ở chỗ môi trường nói tiếng Anh tự nhiên giống người bản xứ trong khi, theo phương pháp trực tiếp, học sinh học ngôn ngữ trong một môi trường nói tiếng Anh mà họ có thể hiểu được.

8. Phương pháp học kiểm tra (Task-based  Language  learning  method)

Phương pháp học này là cách dạy theo từng điểm mục trong tiếng Anh. Ví dụ như nhóm từ vựng, những điểm ngữ pháp được dạy trong một thời gian nhất định sau đó yêu cầu kiểm tra học trò khả năng ghi nhớ và áp dụng vào các bài tập. Ở giai đoạn mầm non, phương pháp này chỉ được khuyến khích sử dụng trong các tình huống mang tính ra lệnh/ yêu cầu. Chẳng hạn, giáo viên mầm non nói "give me an apple",nếu các bé làm theo được là đạt yêu cầu. 

9. Phương tác tương tác thể chất toàn diện (TPR - Total Physical Response)

 Phương pháp này ghi nhận một thức tế rằng trẻ em không thể ngồi yên! Phương pháp  tương tác thể chất toàn diện nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng hiểu bằng âm thanh khi mà các bé tham gia phản ứng tích cực với một số mệnh lệnh nhất định. Ví dụ, "Close your eyes", "Touch your nose", "Sit down", v.v. (theo tác giả Richards & Rodgers, 1986). Sử dụng các hoạt động TPR trong trường mầm non sẽ khuyến khích trẻ em hoạt động thể chất. Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất và một trong những phương pháp tạo nhiều thích thú nhất cho trẻ em. 


Từ việc hiểu căn bản sự khác biệt giữa các phương pháp sẽ giúp giáo viên/ phụ huynh đánh giá được bối cảnh học tiếng Anh của học trò/ con cái của mình. Ce Phan từng trải qua hầu hết các phương pháp nói trên và sẽ giúp các bạn hiểu sâu thêm một bước nữa thông qua một bài giảng qua video của mình nhé. 

Hãy giữ liên lạc nhé!
Ce Phan