Hiểu triết lý giáo dục theo cách bình dân
Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024
Triết lý giáo dục bình dân
Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022
Giáo viên Việt Nam chập chững tìm hiểu các khái niệm về giáo dục
Đọc qua các diễn đàn về giáo dục mầm non trên facebook có cảm giác là giáo viên trẻ bây giờ rất chịu học hỏi. Các trào lưu giáo dục mới đều được đề cập ở đó.
Cái còn thiếu là gì?
Tôi nghĩ đó chính là trải nghiệm giáo dục thực tế. Khoảng cách giữa lý thuyết là thực tiễn cách rất xa nhau. Ví dụ, khi nói "lấy học sinh làm trung tâm", nhưng để làm được điều đó thì chỉ có 1/1000 trường học có thể làm được và hiểu thấu đáo về nó. Để kiểm chứng bạn có dám trả lời một số câu hỏi căn bản này không!
1. Ngôi trường với cơ sở vật chất được xây nên với lối kiến trúc có dựa vào những nghiên cứu kiến trúc trương quan với đặc điểm phát triển của trẻ em hay không?
2. Triết lý giáo dục của trường có được kiểm nghiệm bởi các nhà chuyên môn giáo dục trẻ em hay không?
3. Từng giáo viên có được đào tạo và hiểu được cách hướng dẫn trẻ em theo từng đặc điểm học tập và trải nghiệm riêng hay không?
4. Môi trường xung quanh trẻ em như không gian tương tác xã hội, gia đình có tương tác tích cực tới sự phát triển của trẻ em hay không?
.... Trên đây chỉ là một số trong vô vàng những yếu tố để một môi trường giáo dục có thể chứng minh rằng đó là môi trường lấy trẻ em làm trung tâm.
Từ những khái niệm đầu tiên, giáo viên Việt Nam cần thêm những sự rèn luyện tích cực hơn nữa thì mới có thể nâng lên một cấp độ nữa trong công việc của mình. Nhưng dù sao, việc tìm tòi học hỏi lúc nào cũng đáng khích lệ.
Không cần theo đuổi những lý thuyết quá xa vời. Trường học ở Việt Nam chỉ cần làm được những điều căn bản sau đây đã là rất tuyệt vời.
1. Sự an toàn của trẻ em được cam kết và thực hiện đầy đủ.
2. Sức khoẻ thể chất của trẻ em được quan tâm tương xứng với sức khoẻ tinh thần
3. Xây dựng một môi trường học tập lạc quan hơn, vui vẻ hơn.
Ce Phan
Sự khan hiếm nguồn sinh viên cho các trường Đại học địa phương
Ngày nay lượng sinh viên Đại học ngày càng khan hiếm bởi vì sự sụt giảm người trẻ ở khắp nơi trên thế giới. Cùng với nó là trào lưu không xem vào Đại học là con đường tiến thân chủ yếu như trước đây. Đó là lý do các trường Đại học lớn trên thế giới trở nên "khát" sinh viên. Vì mục tiêu sinh tồn, họ phải lôi kéo sinh viên quốc tế bằng mọi cách (thậm chí chỉ cần tấm bằng tiếng Anh tối thiểu là có thể đậu đầu vào).
Một khi cái đà này tiếp diễn thì những trường ngoài TOP sẽ phải hạ mức sàn tuyển sinh để ráng vét cho hết học sinh sau khi tốt nghiệp cấp 3. Nhưng giải pháp này cũng không phải là cách bền vững. Sự sinh tồn của phần lớn trường ĐH ở Việt Nam sẽ ngày càng khắt nghiệt hơn trong tương lai gần. Mà hiện nay hình như đã thoi thóp.
Một trong những HẠ sách mà chúng ta thấy trong những ngày vừa qua đó là việc xiết những kì thi kiểu như IELTS, TOEIC. Nhưng cho dù vậy, lượng học sinh đi du học vẫn sẽ tiếp tục bởi vì các kỳ thi chuẩn hoá bây giờ có thể thi online mà không cần tới cục khảo thí.
Người Nhật, Hàn và Sing đã nhìn ra vấn đề này khá sớm và cố gắng "hút máu" nhân lực trẻ của những nước Á Châu kém cỏi khác. Dù vậy, họ đã đi chậm hơn các nước phương Tây, Úc, Canada và Hoa Kỳ. Gần đây, một trong những lời đề nghị mà thủ tướng Nhật Bản dành cho tân Bộ trưởng bộ Giáo dục đó là phải đổi mới hệ thống giáo dục để có thể đón hàng trăm ngàn du học sinh trong những năm tới.
Kinh doanh giáo dục là 1 nhưng chuẩn bị nhân lực trong tương lai là 10. Nhiều nước đã không ngần ngại vung tay cấp thật nhiều chương trình học bổng để nhắm tới cái đích này.
Việt Nam đã quá muộn màng.
Ce Phan
Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?
Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?
Tôi muốn hỏi điều này tới hầu hết mọi giáo viên mầm non mà tôi trò chuyện, kể cả các đồng nghiệp ở Nhật Bản và những đồng nghiệp mới của tôi ở Việt Nam. Tôi nhớ lại câu hỏi này ngay trong tuần đầu tiên khi tôi bắt đầu chương trình Thạc sĩ của tôi. Đó là thời điểm tôi học môn học Lịch sử giáo dục với bài học đầu tiên về mục đích của giáo dục. Giáo sư đã hỏi "Điều gì đã khiến bạn muốn trở thành giáo viên?". Có lẽ tới bây giờ, câu trả lời của tôi vẫn không thay đổi nhiều so với lúc đó.
Tôi muốn nói rằng: Nghề giáo là một nghề có thể mang lại cho tôi một cuộc sống ổn định tại Nhật Bản cùng với những phúc lợi xã hội khác. Nó cũng đã giúp tôi có cơ hội cùng học với chính học trò của tôi. Cho dù cả hai điều quan trọng trên được thoả mãn, nhưng chắc chắn là tôi đã không chọn cái nghề này nếu tôi không có tình yêu đặc biệt với giảng dạy. Tôi yêu thích truyền đạt những kiến thức hay tới học trò bằng nhiều cách khác nhau và tôi cũng muốn nhìn thấy sự trưởng thành từng ngày của những đứa trẻ.
Có lẽ hầu hết mọi đồng nghiệp yêu nghề mà tôi đã trò chuyện đều có những suy nghĩ tương tự. Điều thú vị nhất mà tôi nhận ra đó là họ yêu trẻ nhiều hơn tôi! Có lẽ đó là cách tự nhiên mà bất kì giáo viên mầm non nào được hỏi câu hỏi đó. Hoặc cũng có thể tôi là giáo viên nam hiếm hoi trong lĩnh vực này và tôi nghiêng phần nhiều vào lý trí hơn là cảm xúc!? Nhưng cho dù như thế nào đi nữa, lý do mà bạn lựa chọn để trở thành giáo viên sẽ trở thành nguồn động lực quan trọng để bạn phát triển trong lĩnh vực này.
Tôi tin rằng việc tự hỏi bản thân mình về lý do khiến mình làm điều gì đó cũng chính là kim chỉ nam để giáo viên nhận ra đó là lẽ tự nhiên liên quan tới động lực của trẻ em. Tuy ở giai đoạn đầu đời và chưa sử dụng ngôn ngữ linh hoạt để thể hiện mong muốn cá nhân, nhưng mọi trẻ em đều được thôi thúc bởi những động lực riêng. Điều này còn được hiểu là mối quan tâm hay những đặc điểm riêng trong cách phản ứng và tương tác của trẻ. Khi nói tới đây, chúng ta thử ngẫm lại: Liệu trẻ em có lựa chọn việc đến trường mầm non hay không?. Câu trả lời chắc chắn là không! Vì thế để một đứa trẻ chuyển biến từ một điểm khởi đầu bị động thành một đứa trẻ chủ động và yêu thích những gì mình làm ở trường không phải là một điều dễ dàng.
Tôi nghĩ thách thức trên không chỉ là trở ngại ban đầu khi trẻ mới nhập học mà cũng là rào cản trong việc phát triển của trẻ em trong suốt quãng thời gian ở trường mầm non. Nếu giáo viên biết tập trung tìm ra nhiều phương cách khác nhau để để trẻ em cũng tìm được động lực thôi thúc cho riêng mình thì giáo viên đó cũng đã hoàn thành được một nhiệm vụ lớn lao trong nghề giáo của mình.
Mặc dù đã điều lần được hỏi và tự hỏi về “Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?”. Tôi vẫn luôn muốn nhắc lại để nhắc nhở bản thân mình về những gì mà tôi đang hướng đến. Đó cũng là một phần trách nhiệm của tôi với công việc giảng dạy mà tôi đang làm hằng ngày. Còn bạn thì sao? Bạn đã có câu trả lời cho riêng mình chưa?
Ce Phan
Thứ Ba, 4 tháng 1, 2022
Sự thấu cảm và lòng trắc ẩn trong giáo dục
Giáng sinh và Năm mới thường mang lại cho mọi người cảm giác yêu thương và chia sẻ. Điều này đã tạo cảm hứng để tôi kể lại một vài trải nghiệm giáo dục của tôi về hai từ “sự thấu cảm” và “lòng trắc ẩn. “Sự thấu cảm” gợi lại cho tôi về những hoạt động giáo dục mà tôi đã có ở Việt Nam, trong khi đó từ “lòng trắc ẩn” thì mô tả môi trường giáo dục mà tôi đang làm việc tại Nhật Bản.
Nhà triết học Maslow xác định sự thấu cảm như một nhu cầu cơ bản như sự che chở và thừa nhận từ mọi người xung quanh đối với một cá nhân. Những nhu cầu đó liên quan tới những nhu cầu cơ bản về sinh lý, an toàn, an ninh, thuộc về (cộng đồng), tình yêu và lòng quý trọng. Như vậy, sự quan tâm của nhà giáo tới những nhu cầu của học sinh sẽ có thể giúp học sinh thúc đẩy việc học và có thể đạt được nhu cầu ở bậc cao hơn đó là nhu cầu về nhận thức (hay nhu cầu học tập).
Trước tiên, đối với tôi hình ảnh người thầy trong quá khứ của tôi được phân định thành “người thầy thấu hiểu” và “người thầy bình thường”. Những người thầy thấu hiểu là những người tạo cho tôi một cảm giác ấm áp, thuộc về cộng đồng của lớp học, trường học. Ngược lại, cũng có những người thầy đã không tạo một không khí học tập thân thiện và làm cho áp lực học tập ngày càng trở nên dồn nén. Về cá nhân, tôi rất cần những người thầy có thể thúc đẩy tôi cũng như chấp nhận những khiếm khuyết của tôi ở trường học. Thông qua sự gắn kết của một tập thể trong lớp học, tôi có thể nhận ra rằng sự thấu cảm giúp cho những con người trong tập thể có thể tương trợ nhau để cùng phát triển. Ngược lại, sự nghi kị, hà hiếp và thụ động sẽ làm cho mọi thành viên trong tập thể trở nên vỡ vụn.
Gần đây, tôi trải nghiệm một lần nữa về sự thấu cảm khi tôi hỗ trợ một tổ chức từ thiện có tên là “Thư viện ước mơ”. Đây là một chương trình xây dựng những thư viện nghệ thuật miễn phí cho các trường học ở nông thôn ở Việt Nam, nơi mà trẻ em ít có cơ hội tiếp cận với sách. Chương trình này được tạo cảm hứng từ một buổi sưu tầm tranh của nhiếp ảnh gia Lê Hồng Linh với chủ đề là “Thấu cảm và những câu chuyện chưa kể” sau những trận lũ lụt tàn phá những ngôi trường ở miền trung Việt Nam. Từ chương trình này, sự thấu cảm trong tôi đó chính là sự tương trợ, đồng hành và trao cơ hội cho người khác.
Trong một môi trường giáo dục khác tại Nhật Bản gợi cho tôi những suy nghĩ về lòng trắc ẩn nhiều hơn là sự thấu cảm. Theo cách hiểu của tôi, lòng trắc ẩn thôi thúc người ta hành động nhiều hơn là sự thấu cảm và vì thế nó tạo cảm giác giàu năng lượng hơn. Thông qua trải nghiệm cá nhân, tôi cảm nhận rằng phẩm chất căn bản của giáo viên ở đây đó là sự giàu lòng trắc ẩn bởi vì môi trường giáo dục ở đây lấy học sinh làm trung tâm và học sinh có tiếng nói quan trọng trong trường học. Khi một học trò có hành vi không đúng mực, giáo viên thường có xu hướng tìm kiếm lý do đằng sau nó và tìm những giải pháp để giải quyết vấn đề thay vì quở phạt học trò.
Quay trở lại với tháp nhu cầu của Maslow, tôi nhu cầu nhận thức (hay nhu cầu học tập) chỉ có thể được thoả mãn một cách đầy đủ sau khi những nhu cầu căn bản hơn được đảm bảo trước. Trong đó, sự tôn trọng và lòng trắc ẩn là những nền tảng căn bản mà học trò cần được cung cấp trong môi trường giáo dục. Những nhà nghiên cứu giáo dục tin rằng phẩm chất đó cần được xây dựng và tạo cảm hứng từ trên xuống dưới trong hệ thống giáo dục. Ví dụ như trong trường học thì điều đó phải được đảm bảo từ hiệu trưởng, tới quan quản lý, tới giáo viên và theo đó là học sinh. Như vậy, xây dựng một nền tảng đạo đức trong trường học và tạo cảm hứng làm việc cho giáo viên là phẩm chất nền tảng mà hiệu trưởng cần có. Tuy đó là yêu cầu cơ bản nhưng cũng không hề dễ dàng đạt được bởi vì những phẩm chất đó chỉ thường có ở những nhà giáo đầy khát vọng.
Tôi tin rằng, sự thấu cảm và lòng trắc ẩn là tiền đề căn bản nhất để xây dựng một cộng đồng lành mạnh bên trong trường học và sẽ tạo đủ yêu thương để mọi thành viên từ giáo viên, ban giáo hiệu và học sinh cảm thấy mình là một phần quan trọng trong tập thể ấy.
Ce Phan
Chúng ta có đang làm những đứa trẻ trở nên thất bại?
Tôi đã biết đến nhận định này trong một bài diễn thuyết trên TED Talks của Sir Ken Robinson vào tháng 2 năm 2006và đã thực sự ấn tượng bởi vì ông ấy nói về sự thiên lệch của nền giáo dục đã triệt tiêu đi tính sáng tạo của rất nhiều trẻ em. Và có lẽ đó chính là nguyên nhân để dẫn đến kết luận của ông rằng hệ thống trường học của chúng ta đang làm trẻ em trở nên thất bại.
Như vậy có thể hình dung được rằng có thể mục tiêu giáo dục của nhiều trường học có thể không đáp ứng được mục tiêu cuộc đời của những đứa trẻ. Đến lúc này, chúng ta có thể hoài nghi rằng liệu những đứa trẻ có thực sự biết chúng muốn gì và thể hiện khả năng của mình ra sao hay không? Lời nhận định của Picasso có thể giúp gia cố cho niềm tin của chúng ta rằng khi ông nói mọi đứa trẻ sinh ra đều là nghệ sĩ và chúng chỉ biểu lộ những vấn đề khi chúng trưởng thành hơn mà thôi. Ngày nay, chúng ta chứng kiến thêm rất nhiều những tài năng nhí thậm chí dưới 10 tuổi.
Giáo dục đang định hướng phát triển con người hay giáo dục là công cụ để thực hiện những mục tiêu khác? Dễ nhận thấy rằng chúng ta vẫn ở trong quỹ đạo ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp hoá với những trào lưu mới như: toàn cầu hoá, kỹ nghệ số hoá. Nhu cầu đào tạo ra lực lượng lao động để giải quyết những vấn đề trong quá trình phát triển công nghiệp đã thu hút hầu hết các nền giáo dục vào tiến trình đó. Mặc dù, xã hội công nghiệp cũng mở rộng ra nhiều lĩnh vực và đạt được những sự đa dạng nhưng nó vốn dĩ vẫn bị bó buộc vào những ngành nghề theo quy luật cung cầu của thị trường công việc. Như vậy, xu hướng công nghiệp hoá đã mang lại cuộc sống với những tiện nghi nhất định nhưng cũng đồng thời bỏ qua rất nhiều những giá trị khác về nhân sinh học mà nổi bậc nhất là sự sáng tạo nghệ thuật.
Trong một bài diễn thuyết khác của Sir Ken Robinson vào năm 2010, ông lại tiếp tục kêu gọi một cuộc cách mạng giáo dục để những đứa trẻ có thể phát triển toàn diện hơn. Trong đó, ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong sự hiểu biết về trí thông minh của trẻ em. Theo đó, trí thông minh bao gồm 3 phần: sự đa dạng, sự năng động và sự dễ nhận biết. Ông cũng cho rằng đây là những nguyên tắc gốc rễ để nền giáo dục có thể xây dựng lại hệ thống của mình để có thể chạm tới những phạm vi mà nó chưa từng nhấn mạnh trước đây.
Giáo viên dĩ nhiên là một yếu tố quan trọng trong sự cân nhắc này bởi vì giáo viên là những người gần gũi với trẻ em nhất và họ cũng hiểu những đặc điểm riêng của từng học trò. Ở khía cạnh này có thể lấy sự hiệu quả trong việc phát huy khả năng thiên bẩm của trẻ em để đánh giá sự hiệu quả của giáo viên thay vì những mục tiêu đóng khung hàng năm dành cho giáo viên. Tôi nhận thấy, trong sự dịch chuyển giáo dục này, giáo viên sẽ làm việc với hai phạm trù: xác định lại những thách thức mà họ phải đối mặt trong nền giáo dục cá nhân hoá và cách chuyển hoá chúng thành những giá trị với sự lạc quan và thích thú dành cho học trò. Để có thể phát huy được thế mạnh của nền giáo dục cá nhân hoá thì giáo viên phải có sự nhạy cảm trong quan sát và đánh giá học sinh. Họ bắt buộc phải trở thành những chuyên gia trong môi trường giáo dục ấy. Lấy giáo viên mầm non làm ví dụ, họ thường áp dụng phương pháp đánh giá tiến trình (formative assessment) thông qua quan sát biểu hiện của những đứa trẻ hơn là đánh giá thông qua kết quả học tập (summative assessment). Điều này giúp họ dễ dàng đạt được sự nhạy cảm thông qua việc ghi chú lại những thói quen cũng những biểu hiện lạ và từ đó thiết kế một môi trường giáo dục phù hợp để những khả năng của trẻ em có điều kiện phát triển.
Dĩ nhiên, sự phát triển của trẻ em ở mỗi giai đoạn là khác nhau. Tạm thời các nhà giáo dục và những nhà nhân sinh học tạm thời phân loại ra các giai đoạn như thời thơ ấu, thiếu nhi và thiếu niên trước khi các em xác định rõ các định hướng phát triển nghề nghiệp sau này. Khi nhìn vào các giai đoạn trưởng thành này của trẻ em, chúng ta sẽ nhận ra cách mà nền giáo dục đang làm là xây dựng nên một cái tháp tri thức. Khi trẻ em càng lớn cũng sẽ càng giới hạn lại những phạm vi hoạt động học thuật và tập trung hơn cho những gì mà chúng cảm thấy là thế mạnh của chúng. Để quá trình này không làm trẻ em trở nên thất bại ngay từ giai đoạn đầu đời, nền giáo dục cần có những cải tổ để có thể giúp trẻ em phát triển suy nghĩ dồi dào của chúng và mang lại nhiều cơ hội hơn để trẻ em có thể trải nghiệm nhiều các khía cạnh khác nhau trong đời sống.
Ce Phan
Dạy thêm - học thêm câu chuyện cũ mà vẫn còn mới ở Việt Nam
Nhìn một cách bao quát thì việc dạy thêm và học thêm diễn ra khá phổ biến ở các nước Châu Á. Tôi có trải nghiệm dạy học ở Việt Nam và Nhật Bản nên sẽ chia sẻ đôi điều liên quan tới vấn đề này nhân ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11).
Nguyên nhân gốc rễ
Khi nhìn vào chương trình học từ mầm non cho đến chương trình phổ thông trung học ở Việt Nam, có thể nhận thấy một điểm chung đó là nền giáo dục lấy việc đánh giá năng lực học tập của học sinh làm trung tâm. Bên cạnh nền giáo dục xem người thầy là trung tâm thì đây cũng là một triết lý giáo dục được xem là truyền thống của hầu hết các nền giáo dục trên thế giới. Chương trình học và mọi hoạt động giáo dục diễn ra để tập trung chủ yếu vào việc thi cử. Sự chuyển tiếp giữa các cấp học từ thấp lên cao cũng chỉ dựa vào điểm thi mà hầu như bỏ qua các tiêu chí khác như thái độ học tập, định hướng học tập, nghiên cứu. Giống Việt Nam ở việc vẫn duy trì các kỳ thi chuẩn hoá (standardized tests), nền giáo dục của Nhật Bản vẫn còn nặng tính thi cử mặc dù họ có rất nhiều nỗ lực giảm bớt. Hiện tại, có rất ít các kỳ thi diễn ra ở cấp tiểu học (học sinh lớp 1 và 2 thì không đánh giá thông qua điểm số). Tuy nhiên, giáo dục Nhật Bản lấy học sinh và nội dung làm trung tâm do đó họ có xu hướng chú trọng vào sự phát triển cá nhân và sự tuyền đạt được kiến thức quan trọng mà các nhà giáo dục cho rằng qua trọng với học trò.
Điểm khác biệt
Có lẽ từ chính việc xem trọng các kỳ thi dẫn đến sự phát triển nở rộ của việc dạy thêm và học thêm. Trong khi giáo viên ở Việt Nam được tự do nhận học trò để dạy thêm thì ở Nhật Bản, giáo viên sẽ gặp rất nhiều rắc rối nếu họ nhận chính học trò trong trường để dạy thêm. Thứ nhất, không chỉ trong ngành sư phạm mà hầu hết mọi lĩnh vực trong đời sống, giáo viên không “kinh doanh sân sau” khi họ vẫn là người trong một tổ chức. Nó liên quan tới đạo đức nghề nghiệp và những quy định nội bộ trong các trường học. Thứ hai, phụ huynh người Nhật cũng có xu hướng sẽ không gửi con cái của mình cho chính những giáo viên dạy con mình ở trường. Lý do đơn giản là họ không muốn trả thêm tiền để học lại hoặc tương tự những gì học trò được học ở trường. Dĩ nhiên, giáo viên phải thể hiện hết năng lực của họ khi họ nhận một công việc nào đó.
Có lẽ sẽ có một số người nghĩ rằng giáo viên người Nhật được trả lương cao nên họ không cần dựa vào dạy thêm. Điều này nên cần xét lại bởi vì thu nhập của giáo viên ở đây thấp hơn thu nhập bình quân của các ngành nghề khác. Tuy nhiên, cũng giống Việt Nam, nghề giáo là nghề được người Nhật xem trọng mặc dù họ không có ngày nhà giáo được tổ chức đặc biệt như ở Việt Nam.
Như vậy các trung tâm dạy kèm ở Nhật Bản diễn ra như thế nào? Những trung tâm này thường được hiểu là các trung tâm giáo dục ngoài giờ (dạy sau giờ học chính khoá hoặc vào cuối tuần). Có một điều mà có lẽ mọi người ít để ý đến là chức năng “giữ trẻ” của những trung tâm này bởi vì phụ huynh ở Nhật Bản thường đi làm về muộn nên họ thường sẽ cho con họ học tiếp thứ gì đó sau thời gian học chính khoá. Một điều nữa đó là các kỹ năng được học trò Nhật thường chọn để học thêm rất đa dạng: học vẽ, học khiêu vũ, học thể dục thể thao, học nhạc và học luyện thi. Những trung tâm này thường có giáo viên cơ hữu chứ không dựa vào nguồn giáo viên ở các trường học. Cũng có thể có những giáo viên nhận những công việc bán thời gian ở các trung tâm này, nhưng phần lớn họ sẽ ưu tiên những công việc của gia đình sau một ngày làm việc.
Ce Phan
Hãy ngưng lạm dụng châm ngôn và biểu ngữ trong giáo dục
Tại sao cứ phải dùng những câu khẩu hiệu giống nhau cho hàng loạt trường thế nhỉ? Mỗi ngôi trường có những đặc điểm và truyền thống riêng vì thế không nên gán những cái nhãn giống nhau ở mọi nơi. Càng dùng đại trà thì càng nhàm chán và phản tác dụng chứ chắc gì đã hay.
Trí thông minh đa dạng của trẻ em, Howard Gardner
Tôi thử kiểm tra trí thông minh của mình bằng một bài kiểm tra dựa trên nghiên cứu của Howard Gardner (1). Dựa trên kết quả đạt được của tôi, họ xếp 3 loại trí thông minh thuộc nhóm trên bao gồm: nội tâm (khả năng phân biệt giữa các loại cảm giác, tạo dựng sự suy nghĩ thấu đáo và đưa ra quyết định về cuộc sống); ngoại cảm (khả năng nhận biết và hiểu được đối phương); cảm nhận hình ảnh và không gian (khả năng nhận thức bằng thị giác và ngoại cảnh và tạo ra các không gian nhận thức một cách hiệu quả)
Trước tiên, phải nói rằng tôi đã rất ngạc nhiên và ấn tượng rằng người ta có thể tạo ra một tiêu chuẩn nào đó để đo lường trí thông minh của con người. Lý thuyết về trí thông minh đa dạng của Howard Gardner đã làm lu mờ đi những quan điểm truyền thống hạn hẹp về trí thông minh khi lý thuyết của ông đã vạch ra chín điểm thông minh (ngôn ngữ, logic, hình ảnh/không gian, thể chất, âm nhạc, ngoại cảm, nội tâm, thế giới tự nhiên và hiện sinh). Khi nghiên cứu về lý thuyết này, Zhou & Brown nói rằng những loại trí thông minh này có khả năng tạo ra và giải quyết các vấn đề, tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ được đánh giá cao trong một nền văn hóa hoặc xã hội. Trước đây, tôi đã biết tới cách người ta đánh giá thông qua chỉ số IQ nhưng dường như nó chỉ kiểm tra những đặc điểm liên quan tới ngôn ngữ và logic. Quan niệm về trí thông minh đa dạng của Howard Gardner đã thực sự mở ra một cách nhìn bao quát hơn về sự thông minh của con người. Tôi cho rằng, những phát hiện đó có ý nghĩa rất lớn đối với giáo dục, đặc biệt là giáo dục trẻ em.
Quay trở lại kết quả mà tôi nhận được từ bài kiểm tra MI. Tôi nghĩ kết quả đó mô tả đúng với những khả năng mà tôi tin là nổi bậc nhất của tôi ở thời điểm hiện tại. Trong khi thực hiện bài test, tôi có một chút do dự khi trả lời một số câu hỏi đặc biệt là những câu hỏi về logic hoặc các trò chơi sử dụng tư duy logic. Thực tế, có những kỹ năng là thế mạnh của tôi trong những năm về trước nhưng lại không thường xuyên được thể hiện ở thời điểm hiện tại. Tôi nhận ra ở mỗi giai đoạn của cuộc đời thì tôi lại có những mối quan tâm và sự ưu tiên khác nhau. Theo như nghiên cứu tâm lý học về các giai đoạn của một đời người, Daniel Levinson đã chia làm 5 giai đoạn chính và mỗi giai đoạn chúng ta có những thay đổi lớn về biểu hiện, suy nghĩ và những sự ưu tiên trong cuộc sống rất khác nhau. Theo đó, với độ tuổi này, tôi đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp từ “tự điều chỉnh” tới “ổn định”. Trong giai đoạn này, tôi thường xem xét lại những thành tựu đã đạt được và điều chỉnh lại cuộc sống của mình. Tôi cũng phấn đấu hoàn thành những mục tiêu cho cuộc đời và bắt đầu lo cho gia đình và cộng đồng. Do đó, tôi cho rằng kết quả chúng ta nhận được thông qua MI trong mỗi giai đoạn là khác nhau.
Tóm lại, tôi cho rằng có khả thi khi dựa vào những con số thống kê về những loại trí thông minh theo từng giai đoạn phát triển của học trò. Từ đó, các nhà giáo dục có thể xác định những ưu tiên cần thiết cho học trò trong chương trình giáo dục. Nếu chúng ta xác định được một giai đoạn vàng về sự phát triển thịnh vượng nhất các loại trí thông minh thì chương trình giáo dục sẽ có những điều chỉnh phù hợp và phát huy tốt nhất tiềm năng của trẻ em.
Ce Phan
(1) Multiple intelligences. (2021). Career insite. https://alis.alberta.
Thứ Hai, 15 tháng 2, 2021
Mùa xuân và giáo dục trẻ em Việt Nam
Mùa xuân Việt Nam đã lan toả những năng lượng tích cực để mang những trái tim Việt lại gần nhau hơn
Đã từ rất lâu, tôi đã viết và chia sẻ những câu chuyện về giáo dục trẻ em ở Nhật Bản và Vnexpress chính là nhịp cầu đáng tin cậy mà tôi lựa chọn để truyền tải những thông điệp tích cực đến mọi người ở Việt Nam.
Cách đây chừng một tháng, tôi không ngờ rằng những mong muốn truyền đạt lại những kiến thức, kỹ năng về giáo dục trẻ em mà tôi tích luỹ được từ công việc giảng dạy tại Nhật Bản lại được các bạn đồng nghiệp tại Việt Nam ủng hộ rất nhiệt tình.
Tôi cảm nhận được mùa xuân ấm áp đã mang chúng tôi lại gần nhau hơn. Chúng tôi, giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học và giáo viên dạy tiếng Anh thực sự muốn thay đổi bản thân mình và học những kiến thức mới về giáo dục trẻ em ở những đất nước tiên tiến.
Nhìn về tương lai của những đứa trẻ rất đáng yêu ở Việt Nam, tôi và đồng nghiệp đến từ Nhật Bản, Úc đã tạo ra một môi trường chia sẻ kiến thức đến giáo viên ở Việt Nam. Chúng tôi chia sẻ tất cả mọi vấn đề liên quan tới môi trường học của các em và những phương pháp mới để nâng cao chất lượng giáo viên.
Thế là, một nhóm với quyết tâm trên đã ra đời và chúng tôi tự đặt tên là "ƯƠM MẦM GIÁO VIÊN VIỆT" nơi mà chúng tôi trao cho nhau những giá trị trên tinh thần tình nguyện. Những giáo viên đang sống ở nước ngoài như tôi cũng luôn mong muốn có thể làm điều gì đó cho quê nhà, Wx mđặc biệt là cho trẻ em. Vì thế, chúng tôi đã đến với nhau để tạo ra những buổi học miễn phí cho giáo viên tại Việt Nam.
NHÓM ƯƠM MẦM GIÁO VIÊN VIỆT: https://www.facebook.com/groups/uommamgiaovienviet
Sau một vài buổi học đầu tiên, tôi cảm nhận được niềm vui thực sự từ sự chia sẻ và tôi nghĩ những người đồng hành cùng tôi cũng có cảm nhận tương tự. Có những thứ dường như rất nhỏ, nhưng nó lại là những kiến thức hay giúp cho giáo viên cải thiện cách nhìn của mình về giáo dục trẻ em.
Chẳng hạn, giáo viên Việt Nam thường hay nói với học trò "Là con trai, em không nên khóc như thế" hoặc "Là con gái, em không nên nói như thế". Đó là điều mà giáo viên nên tránh nói với học trò. Hoặc một điều đơn giản hơn mà giáo viên ít để ý là khi dạy về ước mơ hoặc những công việc trong tương lại, mặc nhiên hình ảnh minh hoạ thường là: nam sẽ là kỷ sư, bác sĩ, phi công ..., còn nữ thường là y tá, cô giáo, nữ tiếp viên .... Đó là cách minh hoạ không đúng và cần tránh.
Đó là một vài ví dụ mà tôi đưa ra trong rất nhiều tính huống mà thầy cô có thể đang mắc phải những lỗi liên quan tới quyền trẻ em hoặc sự kỳ thị ở học đường. Và còn có rất nhiều những kiến thức khác mà giáo viên ở Việt Nam cảm thấy rất mới mẻ.
Sự phản hồi của thầy cô cũng cho tôi biết được tình hình giảng dạy thực tế ở trong nước để tôi hiểu hơn và có thể chọn lọc những điều mà chúng tôi nghĩ có thể áp dụng được ở Việt Nam. Sự khác biệt giữa các nền giáo dục là điều rất rõ rệt nhưng cũng có nhiều điều từ những nền giáo dục khác có thể áp dụng vào môi trường ở Việt Nam.
Quả thật là sự tương tác của chúng tôi là điều ngoài mong đợi. Sự hiếu học của người Việt chính là bản lề để tạo ra sự thay đổi và chúng tôi tin rằng sẽ mang lại những điều tốt đẹp hơn cho tương lai.
Một mùa xuân nữa lại về, mặc dù tôi không được hưởng không khí Tết một cách trực tiếp như mọi người ở Việt Nam nhưng tôi đã cảm thấy ấm lòng. Tôi biết rằng mọi người sẽ cùng cố gắng trong năm mới để chúng tôi có thể đi xa hơn và làm được thật nhiều điều ý nghĩa.
Ce Phan
Bài viết cũng được đăng trên báo Vnexpress: https://vnexpress.net/mua-xuan-va-giao-duc-4234980.html
Thứ Năm, 28 tháng 1, 2021
Ước mơ về môi trường giáo dục tốt hơn cho trẻ em Việt Nam
Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020
Học trò chỉ được dùng điện thoại trong những trường hợp rất hạn chế trong trường học ở Nhật Bản
Quyết định sửa đổi thông tư của Bộ Giáo dục Việt Nam về việc sử dụng điện thoại trên trường học đã tạo ra những ý kiến trái chiều nhau. Đây cũng là một chủ đề gây nhiều tranh cãi ở nhiều nền giáo dục khác nhau trong sự cân bằng giữa lợi ích của việc sử dụng điện thoại trên trường và những tác hại của nó. Riêng ở Nhật Bản, học sinh chỉ được sử dụng điện thoại trong những trường hợp rất hạn chế trong trường học.
Cũng tương tự như ở Việt Nam, số lượng học sinh Nhật Bản sở hữu điện thoại ngày càng tăng cao. Theo số liệu được thống kê trong năm 2019, tỷ học sinh Nhật Bản có sở hữu điện thoại là 3%; 14%; 18%; 63% cho các đối tượng lần lượt là lớp 1-2; 3-4; 5-6 và trung học (1). Tỷ lệ này cũng phản ánh mức độ chấp nhận sử dụng điện thoại của phụ huynh dành cho con cái cũng tăng dần khi các em lớn lên.
Mặc dù việc học trò có điện thoại riêng là lựa chọn mang tính cá nhân nhưng trường học ở Nhật rất dè dặt trong việc cho phép học sinh sử dụng điện thoại bên trong trường học. Theo một quyết định từ Bộ Giáo dục Nhật Bản vào năm 2019 thì trung học cơ sở trở xuống bị cấm mang điện thoại lên trường học (2). Gần đây thì họ đã cân nhắc lại quyết định trên sau những tai nạn đáng tiếc xảy ra cho học trò vì thiên tai khi các em đi học.
Hiện tại, các chính quyền địa phương ở Nhật Bản sẽ có quyết định riêng của họ rằng học sinh có được phép mang điện thoại lên trường hay không. Những trường học cho phép các em mang theo điện thoại đều có những hướng dẫn sử dụng rất cụ thể để tránh việc lạm dụng điện thoại trên trường học.
Theo đó, điện thoại các em phải để ở chế độ khoá trong suốt giờ học. Các em được phép mở điện thoại trong những giờ giải lao nhất định hoặc lúc đang di chuyển trên đường.
Đối với học sinh trung học thì các em được đồng ý mang điện thoại lên trường nhiều hơn. Sẽ có nhiều khoảng thời gian hơn để các em sử dụng điện thoại cho mục đích học tập. Tuy nhiên, gần như rất hiếm có trường hợp các em được phép sử dụng điện thoại trong lớp học.
Mặc dù điện thoại ngày càng được mọi người sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau, trong đó có học tập. Nó vẫn còn được xem là công cụ cần được hạn chế trong trường học ở Nhật bởi vì những tác hại mà nó mang lại. Không những thế, phụ huynh ở Nhật cũng rất dè chừng trong việc cho phép con cái của họ sử dụng điện thoại hay các phương tiện điện tử ở nhà. Những vấn nạn về nghiện game, nghiện internet và những thông tin độc hại chính là những lo ngại chính trong việc hạn chế các thiết bị công nghệ cao tới học sinh.
Nguồn tham khảo
(1) Số liệu về tỷ lệ sở hữu điện thoại theo nhóm tuổi của học sinh ở Nhật được thống kê năm 2019
https://www.moba-ken.jp/project/children/kodomo12.html
(2) Nguồn về quyết định xem xét bỏ lệnh cấm sử dụng điện thoại cho học sinh trung học cơ sở trở xuống
https://www.japantimes.co.jp/news/2020/06/25/national/social-issues/japanese-education-panel-broadly-oks-smartphone-ban-lifting-junior-high-schools/
Thứ Tư, 9 tháng 9, 2020
Trẻ em Nhật chịu áp lực trước, hưởng hạnh phúc sau
Người Việt ta có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” để nói về tầm quan trọng của việc phòng tránh và chuẩn bị trước cho những điều tồi tệ có thể xảy ra. Người Nhật cũng có tâm niệm tương tự bởi vì đất nước của họ từng chứng kiến rất nhiều thảm hoạ trong quá khứ. Một cách hiện thực hơn, họ đưa những thử thách đó thành các bài học nhỏ để học trò có thể luyện tập ngay trong trường mẫu giáo.
(Ảnh minh hoạ/ bản quyền thuộc về báo Japan Today)Bản thân tôi không ngạc nhiên khi UNICEF liệt kê trẻ em Nhật chịu nhiều áp lực trong học đường hơn so với các nước tiên tiến khác. Đó là chủ đề lớn mà trong ngành giáo dục của họ đã chú tâm đến trong những năm gần đây. Những thống kê của từ việc khám sức khoẻ tinh thần của các em trong trường học cho thấy một thực tế đáng lo ngại. Tuy nhiên, nó không tệ như người ta tưởng.
Trẻ em Nhật mang theo một hành trang với rất nhiều kỉ năng và kiến thức để vào đời.
Trong khi phần đông trẻ em mẫu giáo ở các nước khác đến trường chỉ để vui chơi và tận hưởng một “hành trình tuổi thơ” đầy thơ mộng thì các bé ở Nhật đã học cách để sinh tồn trong những tình huống nguy hiểm. Không khó để bắt gặp những cuộc diễn tập chống hoả hoạn, động đất, ngập lụt diễn ra ở các trường học ở Nhật.
Chỉ cần một tiếng tuýt còi bất ngờ (không bao giờ báo trước) thì tất cả các em sẽ phải nhanh chóng phản ứng theo chỉ dẫn của thầy cô. Trẻ sơ sinh thì được thầy cô bế trên tay, điệu trên người; trẻ em từ 1 đến 2 tuổi thì được cho vào xe đẩy cút kít; trẻ từ 3 tuổi trở lên phải tự chạy theo hàng. Tôi trải nghiệm ít nhất một lần mỗi tháng như thế trong rất nhiều tình huống được đặt ra khác nhau. Mỗi lần như thế đều rút ra một điều gì đó cần học hỏi và rút kinh nghiệm cho lần tiếp theo.
Nhiều lần trong số đó, các em đã phải nhanh chóng học cách thoát nạn khi đang trong lúc mải chơi, đang trong giờ ngủ trưa hay thậm chí đang ở trong toilet. Mục tiêu tối quan trọng của trường học là không được để xót bất kỳ một trường hợp nào trong điều kiện khẩn cấp.
Mới đây, chúng tôi còn được huấn luyện cách lánh nạn khi có thiên tai nhưng vẫn thực hiện giãn cách xã hội trong mùa dịch Covid-19. Một kế hoạch tỉ mỉ được gởi xuống trường học và ngay lập tức được chỉ dẫn để triển khai thực tập.
Khi các em học sinh lớn lên, ngoài việc duy trì đều đặn những bài thực hành như thế, các em được rèn luyền rất nhiều kỹ năng khác. Học sinh ở Nhật rất giỏi các môn thể thao và khả năng nghệ thuật.
Dĩ nhiên, cuộc đua trong hành trình bỗi dường kiến thức thì lúc nào cũng khắc nghiệt. Áp lực để kế thừa một lượng kiến thức đồ sộ mà thế hệ trước của nước Nhật để lại cùng với việc cạnh tranh với những trào lưu bên ngoài đã làm cho nhiều học sinh đuối sức. Đã có nhiều học sinh phổ thông ở Nhật bỏ học vì cảm thấy việc học quá áp lực. Điều này cũng được phản ánh phần nào trong thống kê của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
Người Nhật rất chấp nhận thực tế và học hỏi để vươn lên
Những thống kê về những khó khăn mà các em học sinh ở Nhật đang phải chịu đựng có được những con số rất xác thực là nhờ sự trung thực của họ. So với những đánh giá tương tự ở Việt Nam, có lẽ người ta tin vào cách làm của người Nhật hơn.
Lấy bản thân tôi làm ví dụ, trong suốt 2 năm mẫu giáo, 12 năm học phổ thông và các chương trình giáo dục đại học, tôi chưa bao giờ được các bác sĩ về thần kinh đánh giá về sức khoẻ tinh thần. Thậm chí gần như không nhớ một kỉ niệm nào về việc khám sức khoẻ thể chất. Tuy nhiên, người Nhật chi tiền cho việc đánh giá sức khoẻ thể chất và tinh thần rất nghiêm túc.
Chưa kể việc cha mẹ tự đưa con đi khám rồi điền vào các mẫu sức khoẻ do trường cung cấp, trẻ em ở Nhật được khám sức khoẻ định kỳ ngay trong trường học. Rất nhiều bác sĩ thuộc các chuyên khoa khác nhau đến khám cho các em. Dĩ nhiên, bác sĩ về thần kinh cũng đến khám hàng năm. Cũng vì thế mà nhiều em đang trải qua những khó khăn được phát hiện sớm và được tư vấn để vượt qua những điều đó.
Cũng tương tự như việc xét nghiệm Covid-19, khi có càng nhiều việc giám sát và đánh giá trong trường học thì “vấn đề” của các em càng lộ rõ hơn. Tôi thử gửi kết quả của UNICEF cho những người Nhật đang có con đi học thì không ai bất ngờ cả. Họ đều đồng ý với sự thật đó.
Người Nhật rất ham học hỏi và vì thế đất nước của họ mới được như ngày hôm nay. Họ từng rất nhiều lần đứng lên từ đau thương và mất mát do đó việc chuẩn bị dành cho các em học sinh rất trường kỳ.
Khi tôi hỏi về những trải nghiệm trên, một người bạn của tôi nói “có thể trẻ em ở những nơi khác được dạy để hưởng hạnh phúc trước, các em học sinh ở Nhật phải luôn sẵn sàng trước những rủi ro nên hạnh phúc sẽ đến muộn hơn”.
Ce Phan
Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020
Dạy trẻ em tự lập khác biệt hoàn toàn với việc bỏ lơ để các em tự lớn
Có thể đâu đó chúng ta bắt gặp những câu chuyện ba mẹ thờ ơ với việc dành thời gian cho con cái và trông chúng rất đơn độc và tội nghiệp. Tuy nhiên, những trường hợp như vậy không liên quan tới việc giáo dục con cái tự lập và hoàn toàn không phải là hậu quả của xu hướng giáo dục này.
Thực ra có một làn ranh rất rõ giữa việc dạy cho con cái trở nên độc lập và việc cứ để mặc chúng lớn lên trải nghiệm “sự đời”. Đó chính là giáo dục!
Để nhìn rõ nét hơn về sự tương phản này, hãy nhìn vào xã hội Nhật Bản, nơi mà xu hướng giáo dục con cái trở nên độc lập luôn được đề cao. Cũng chính nơi đó, người ta có thể bắt gặp cảnh những đứa trẻ tự làm mọi thứ, tự chơi và đôi khi trông có vẻ cô đơn.
Trẻ em ở Nhật Bản khó dựa dẫm vào cha mẹ
Xét về mặt giáo dục thì giáo dục con cái trở nên độc lập có vẻ là một lựa chọn trong nhiều sự chọn, nhưng thực ra đó gần như là yêu câu bắt buộc trong một xã hội công nghiệp như ở Nhật Bản. Trẻ em ở đây gần như có ít cơ hội để dựa dẫm lâu vào sự bảo bọc của người lớn như anh chị, cha mẹ hay ông bà bởi vì mỗi người đều có một công việc và hoạt động riêng.
Chúng sẽ tự đến trường khi chỉ mới 6 tuổi. Nếu trường học ở gần, các em sẽ tự đi bộ tới trường. Nếu trường ở xa, các em sẽ học cách bắt xe buýt, tàu điện ngầm, taxi … để đi đến trường và tự về nhà.
Không những thế, giờ tan trường vào khoảng 3 đến 5 giờ chiều trong khi những cha mẹ người Nhật lại thường về nhà muộn hơn. Chúng sẽ ở nhà chờ cha mẹ khoảng vài tiếng đồng hồ, hoặc sẽ tự nấu ăn và tự chơi trong nhiều giờ liền nếu cha mẹ về nhà trễ. Đó là điều rất bình thường trong cuộc sống ở Nhật Bản. Cũng có những em thì thích la cà một số nơi như công viên, siêu thị, nhà sách hoặc một nơi công cộng nào đó.
Trong khoảng thời gian mấy tiếng ở một mình đó có thể làm cho nhiều người lo lắng bởi vì sợ đứa trẻ có thể sẽ cảm thấy cô đơn hoặc dễ sa ngã vào một thói quen xấu nào đó bởi vì không có người lớn giám sát. Tuy nhiên, phần đông các em học sinh sẽ tham gia vào một lớp học ngoại khoá (after school) cho tới khi cha mẹ tới đón về. Những em có thể ở nhà một mình thường là những em có khả năng độc lập hơn các em khác và có thể tự làm một số việc mà không cần sự có mặt của cha mẹ.
Người Nhật xem nước Nhật đủ an toàn để khuyến khích con cái độc lập
Có rất nhiều câu chuyện tương tự nhau được chia sẻ lại của những gia đình Nhật Bản di cư ra nước ngoài sống. Họ nói rằng họ có thể cho con cái tự làm mọi thứ và cha mẹ chỉ giám sát và ít làm thay con khi họ còn sống ở Nhật bời vì họ tin vào trật tự trong xã hội Nhật. Tuy nhiên, họ không lựa chọn cách tương tự khi sống ở nước khác bởi vì có rất ít lý do để họ tin rằng nơi đó an toàn cho con họ.
Điều đó cho thấy rằng, những cha mẹ người Nhật biết quan sát và đánh giá lúc nào là cần thiết để con tự làm và lúc nào họ cần can thiệp để tạo điều kiện cho con. Cách dạy con trong gia đình và hệ thống giáo dục của Nhật từ khi các em vừa được sinh ra sẽ cho thấy điều đó rõ hơn.
Kể từ một tuổi các em đã được hướng dẫn để tự dọn dẹp, được hướng dẫn cách ngồi lắng nghe và vận động đúng cách. Từ ba tuổi các em được dạy hát, dạy vẽ, dạy chơi các loại nhạc cụ, chơi thể thao .... Tới khi các em bắt đầu dần rời xa sự bảo bọc trực tiếp của cha mẹ là khi bước vào trường tiểu học các em đã biết rất nhiều kĩ năng khác nhau để có thể tự tiêu khiển hoặc hoà mình vào cộng đồng. Kỹ năng giá trị nhất giúp các em thích nghi nhanh chóng vào cuộc sống bên ngoài đó là tính kỷ luật.
Xã hội bên ngoài trường học ở Nhật cũng là môi trường an toàn hơn so với phần đông các nước khác trên thế giới. Hệ thống giao thông công cộng của họ rất hoàn chỉnh đặc biệt là có tính kết nối cao tới những cơ sở công cộng như trường học, thư viện, nhà sách, công viên… Ngoài ra, những tiện ích công cộng khác luôn dành sự ưu tiên cho trẻ em. Các em có lối đi riêng hoặc có những biển báo chỉ dẫn để người khác nhận thức về sự hiện diện của các em.
Chiếc cặp của các em cũng khá đặc biệt. Đó là một chiếc cặp khá lớn đựng được rất nhiều đồ trong đó. Các em mang theo đồ dùng cá nhân, truyện, đồ chơi hơn là các dụng cụ học tập bởi vì các em thường để sách vở lại trên trường. Bề mặt của chiếc cặp có ánh dạ quang để giúp người lái xe có thể tránh các em vào buổi tối. Nó cũng có chuông báo động trong những trường hợp nguy hiểm.
Việc bỏ lơ con cái có xảy ra ở Nhật Bản không?
Theo như báo chí đăng tin thì đúng là có. Có thể có những gia đình vì đặc thù công việc của họ mà thời gian dành cho con rất ít ỏi. Hoặc có những gia đình điều kiện tài chính khó khăn hơn thì không thể cho con cái tham gia các lớp học ngoại khoá cho tới khi cha mẹ đi làm về nhà. Thậm chí nhiều người đi làm cả ngày cuối tuần vì thế gần như không có thời gian để chơi với con. Nhiều trẻ em trong số các em có điều kiện gia đình như vậy chắc hẳn sẽ cảm thấy rất cô đơn và thiệt thòi hơn so với các bạn đồng lứa.
Nhưng một điều rất rõ ràng là những trường hợp này không phải là hệ quả của xu hướng giáo dục giúp con cái tự lập. Nó xảy ra như một mặt của xã hội mà bạn có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới này. Việc giáo dục cho con cái độc lập tốn rất nhiều thời gian và công sức của cả gia đình và xã hội trong khi đó việc bỏ lơ con cái tự lớn thì hoàn toàn ngược lại. Đó là hai điều hoàn toàn tách biệt nên rất quy kết sự liên quan với nhau.
Ce Phan
Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020
Sự tương tác giữa gia đình và trường học rất quan trọng
Hãy suy nghĩ về ngày mai khi chúng ta ngày càng bận rộn hơn thì quỹ thời gian nào sẽ dành cho việc dạy con cái!? Một, hai tiếng để vui đùa với con cái mỗi ngày trước khi chúng lên giường đi ngủ để chuẩn bị đến trường vào ngày hôm sau cũng không hề dễ dàng gì để thu xếp huống chi là một lịch dạy học cố định dành cho con.
Khi ông bà và con cái dần có xu hướng ở riêng thì những đứa cháu sẽ tăng thời gian học từ một buổi, thành hai buổi trên trường để lấp đi một ngày đi làm của cả cha lẫn mẹ. Đó sẽ là điều sẽ xảy ra trong một xã hội phát triển hơn và có tính phân công lao động cao hơn.
Tuy nhiên, cho dù trường học có cải tiến như thế nào chăng nữa thì cũng không thể nào nhận hết trách nhiệm giáo dục một đứa trẻ cho trọn vẹn được. Một phần rất quan trọng trong việc giáo dục sẽ dành cho cha mẹ. Họ sẽ phải tính toán rất nhiều để làm sao cho chu toàn trong quỹ thời gian rất hạn chế còn lại.
(Ce Phan: Con gái vui chơi ở công viên)
Bài học từ Nhật Bản về giáo dục con cái
Lợi thế lớn nhất của những gia đình Nhật đó là phúc lợi xã hội dành cho việc giáo dục con trẻ. Đầu tiên đó là chế độ nghỉ sản một năm dành cho cha hoặc mẹ. So với Việt Nam, người Nhật có nhiều hơn 6 tháng để chăm lo cho con cái mà vẫn được hưởng những phúc lợi cần thiết nhất. Hơn thế nữa, hàng tháng chính phủ Nhật còn có thêm phần trợ cấp bằng tiền mặt để hỗ trợ mỗi gia đình sau khi sinh con.
Đó là lợi thế ban đầu nhưng trách nhiệm giáo dục con cái vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào gia đình mặc cho nền giáo dục của Nhật Bản đã rất tiên tiến. Nhiều gia đình Nhật Bản chỉ có vợ hoặc chồng đi làm toàn thời gian và người còn lại sẽ tập trung nuôi dạy con khi con còn trong tuổi ăn tuổi học. Họ có thể chỉ ở nhà nghiên cứu việc giáo dục gia đình nếu họ có nhiều con. Những gia đình ít con thì cha hoặc mẹ sẽ có thể làm thêm bán thời gian nhưng sẽ tránh những khung giờ mà họ cần phải dành cho con cái. Họ sẽ quay trở lại với công việc bình thường một khi con cái đã trưởng thành. Đó là một sự hy sinh rất lớn mà không phải ai cũng dám làm nhưng điều này lại khá phổ biến ở Nhật.
Những cặp vợ chồng trẻ hơn ở Nhật thì có vẻ ưu tiên cho công việc hơn khi cả vợ hoặc chồng cùng đi làm. Họ chấp nhận có ít con hoặc có con muộn. Tuy nhiên, họ cũng sẽ phải dành một khoảng thời gian cố định trong ngày để quan tâm và hồi đáp những thông tin của con mình mà trường học gửi về.
Theo tôi sự liên lạc giữa trường học và gia đình chính là chìa khoá trong sự thành công trong giáo dục ở Nhật Bản khi mà nó có thể kéo cha mẹ về với trách nhiệm giáo dục con cái. Từ chính công việc dạy học của tôi trong trường, tôi được đào tạo để hiểu về tầm quan trọng trong việc chia sẻ trách nhiệm giáo dục với gia đình ở Nhật.
Trường học ở Nhật sẽ bằng nhiều cách để có thể chia sẻ chia tiết nhất về một ngày trên trường của học sinh như thế nào và ngược lại cha mẹ cũng nói cho giáo viên biết rằng con của họ như thế nào ở nhà. Đây chính là nền tảng để hình thành một nền giáo dục cá thể hoá trong sự chung sức của trường học và gia đình. Các em học sinh sẽ được động viên nhiều hơn để theo đuổi năng khiếu của mình và được quan tâm hơn cho những khuyết điểm mắc phải.
Một điều khác nữa mà tôi cũng nhận ra đó là nước Nhật có một kho tàng sách khổng lồ hướng dẫn về giáo dục dành cho cha mẹ. Có rất nhiều những chỉ dẫn và minh hoạ dễ hiểu mà ai cũng có thể làm theo. Vừa dạy học trên trường và vừa nuôi con, tôi nhận thấy những cuốn sách như trên là cầu nối tuyệt vời để bù đắp những khiếm khuyến cơ hữu giữa hai nền tảng giáo dục trên.
Người Nhật rất thích đọc sách nên họ rất nhanh chóng nắm bắt những chỉ dẫn giáo dục mà họ cần áp dụng cho con cái mình. Điều này dễ hiểu là tại sao người Nhật rất nổi tiếng trong việc nuôi dạy con cái.
Những gì đang xảy ra ở Nhật Bản có thể ở một góc độ nào đó có thể nhìn thấy được từ Việt Nam. Xu hướng giáo dục này có thể sẽ dần trở nên đại chúng với những gia đình Việt. Sự chuẩn bị của cha mẹ về cách tiếp cận trong giáo dục con cái ngay từ hôm nay là điều rất cần thiết.
Ce Phan
Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020
Trẻ em Nhật học về ẩm thực trong từng bữa ăn
Khác với chương trình giáo dục ở Việt Nam, hầu hết học trò ở Nhật học toàn thời gian (từ sáng đến chiều). Điều đó có nghĩa là các em sẽ ăn trưa và ăn giữa buổi chiều ở trên trường. Với đặc thù như vậy, các nhà giáo dục ở Nhật đã xem việc giáo dục về ẩm thực (food education) là một phần quan trọng trong chương trình học, đặc biệt là cấp học mầm non và tiểu học.
(Hình ảnh về bữa trưa của mình. Phần ăn của học trò cũng tương tự như thế nhưng ít hơn)
Trẻ em ở Nhật học được rất nhiều điều từ chương trình giáo dục về ẩm thực này. Đó không chỉ là hiểu các thành phần có trong mỗi bữa ăn mà còn hiểu các hoạt động nông nghiệp và sản xuất để tạo ra những món đồ ăn đó. Xa hơn nữa, các em có cơ hội tìm hiểu về văn hoá ẩm thực ở các nước khác khi các em được thử những món ăn mới đến từ nhiều nước.
Trường học ở Nhật Bản thường sẽ cung cấp bữa trưa và món ăn nhẹ vào giữa buổi chiều. Học trò sẽ tự mang theo nước uống.
Một điều rất ngạc nhiên là ở Nhật, trẻ em có thể uống trà ở bất kỳ độ tuổi nào. Ở Việt Nam, trà thường được hiểu là một loại nước uống làm từ lá trà và phù hợp hơn cho người lớn. Nhưng trà ở Nhật làm từ rất nhiều nguyên liệu khác nhau do vậy loại nước uống này rất đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng hơn.
Mỗi em sẽ mang theo một bình đựng trà để đủ dùng cho cả ngày trên trường. Dĩ nhiên, ở trường lúc nào cũng có sẵn nước uống bổ sung nếu các em uống hết bình nước của mình. Bình đựng trà của các em cũng rất đặc biệt. Thứ nhất, đó là loại bình nóng lạnh để đảm bảo chất lượng nước uống được đảm bảo. Thứ hai, mỗi bình đều phải có túi bọc ngoài và vai sách để có thể mang theo khi các em đi bộ tập thể dục ở bên ngoài trường. Giáo viên sẽ nhắc phụ huynh nếu bình nước không đảm bảo được tiêu chuẩn trên. Họ cũng sẽ kiểm tra các bình nước để chắc chắn rằng bình nước đã được rửa sạch và đổ nước mới vào đó mỗi ngày.
Một buổi ăn trưa ở trường học diễn ra như thế nào?
Sau các giờ học buổi sáng. Các em sẽ nghỉ giữa trưa và đó là lúc các em sẽ ăn trưa trên trường. Thường thì buổi trưa sẽ bắt đầu khoảng 11 giờ trở đi. Trước bữa ăn, các em từ 6 tuổi trở lên được hướng dẫn dọn bàn ghế ăn, sau đó sẽ rửa tay sạch sẽ. Dĩ nhiên, bàn ghế phải được lau chùi sạch sẽ.
Mỗi trường sẽ có cách tổ chức bữa ăn khác nhau tuỳ theo số lượng học trò và điều kiện không gian trong trường học. Dẫu vậy, các yêu cầu sau đều tương tự nhau ở hầu hết các trường.
Giáo viên hoặc người nấu bếp trong trường sẽ chuẩn bị đồ ăn vào từng phần ăn riêng biệt. Học trò sẽ tự mình bưng đồ ăn và trải ăn bàn ăn cho riêng mình. Các bé từ 3 tuổi đã được dạy để tự sắp xếp bữa ăn cho mình.
Một bữa ăn tiêu biểu của các em gồm có: cơm, món chính, rau trộn và canh. Bàn ăn sẽ được bố trí như sau: ở giữa là món chính; bên phải là canh, muỗng và nỉa; bên trái là cơm; đồ ăn tráng miệng đặt phía trên cùng bên phải; đũa đặt ngang trước món chính theo hướng tay thuận. Nếu các em thuận tay trái thì sẽ bày trí bàn ăn ngược lại.
Sau khi các bước chuẩn bị hoàn tất, giáo viên sẽ nói về các thành phần trong bữa ăn và cách chế biến căn bản cho những món ăn này. Bên cạnh bữa ăn được tính toán sao cho đảm bảo dinh dưỡng , nó còn có một số mục đích khác mang tính giáo dục. Chẳng hạn, nhà trường muốn dạy về một số loại lương thực theo mùa, xuất xứ của nguyên liệu, các trình bày món ăn theo chủ đề trong tháng, văn hoá ẩm thực nước ngoài …
Bữa ăn sẽ bắt đầu bằng câu nói “Itadakimasu” (chúc ngon miệng) và kết thúc bằng câu “Gochisousama deshita” (cám ơn vì bữa ăn ngon). Bữa ăn thường kéo dài khoảng 30-45 phút (tương đối thong thả) nên các em được khuyến khích ăn hết phần ăn của mình vì nó đã được tính toán vừa đủ cho độ tuổi của học sinh. Các em cũng luôn được nhắc nhở là chỉ ăn, uống khi ngồi thong thả và không được làm như thế khi đứng và đi. Sau khi ăn xong, các em sẽ dọn dẹp và lau dọn bàn ghế và đưa về vị trí cũ.
Giáo dục về ẩm thực không chỉ trên bàn ăn
Chính vì mong muốn trẻ em lớn lên có thể có được nhận thức sâu sắc về ẩm thực một cách toàn diện. Nội dung về ẩm thực cũng được xuất hiện trong bài giảng và nằm trong các chủ đề định kỳ trong trường học.
Các em được dạy để nhận ra các thực phẩm có lợi và an toàn cho sức khoẻ. Trẻ em thường chỉ thích ăn những gì mình thích nên dạy các em ăn sao cho hợp lý cũng là một thách thức. Giáo viên ở Nhật Bản rất “có nghề” trong việc diễn giải sao cho các em dám thử những đồ ăn mới hoặc ăn được những thứ không thích.
Xa hơn nữa là các em được tận tay làm ra những món ăn đơn giản như các loại nước ép trong những buổi học chuyên đề; hoặc tự trồng và chăm sóc các loại rau củ trong vườn; nhận biết các loại hạt giống và tìm hiểu về ẩm thực từ nhiều nước.
Hoạt động ẩm thực nào thú vị nhất
Dường như hầu hết các em đều đã quen với với những bữa cơm trên trường nên trường học ở Nhật Bản sẽ có những ngày mà các em sẽ tự mang theo cơm hộp để ăn.
Nghe qua rất bình thường, nhưng với các em học trò ở Nhật thì rất đặc biệt bởi vì ngày đó các em sẽ được ăn những món yêu thích nhất do ba mẹ nấu. Cũng là dịp để tìm hiểu những món ăn yêu thích của bạn bè. Các em đều rất hớn hở tìm hiểu về những món ăn mà các em mang theo trong những ngày hôm đó.
Tuy nhiên, cha mẹ trong những ngày này sẽ phải bận rộn hơn trong việc chuẩn bị bữa ăn cho con, và đôi khi cũng thấy áp lực vì không biết liệu đồ ăn mình nấu có sơ sài hoặc không đúng với tiêu chuẩn ẩm thực thông thường trên trường hay không. Một điều nữa là cha mẹ sẽ phải nói chuyện đôi chút với con cái về những món ăn đó bởi vì sẽ có nhiều câu hỏi đến từ thầy cô và các bạn trên trường.
Nhìn chung, người Nhật rất quan tâm về việc dạy trẻ ăn uống như thế nào để tốt cho sức khoẻ. Trường học chính là nơi mà các em trải nghiệm về ẩm thực bài bản nhất.
Ce Phan
Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020
Trẻ em Nhật thực hành tiết kiệm như thế nào?
Có lẽ ai cũng đã ít nhiều nghe nói về đức tính tiết kiệm của người Nhật và dĩ nhiên bạn cũng có nghe nói về lịch sử khó khăn cùng với rất nhiều thiên tai đã diễn ra ở đất nước này. Bạn đã đúng khi hiểu ra tại sao người Nhật đã không phung phí trong chi tiêu và sử dụng đồ đạc hay lương thực.
Nguồn ảnh: Gyutte.jp
Làm thế nào mà người Nhật lại duy trì được tính cách này trong suốt chiều dài lịch sử?
Câu trả lời nằm ở nền giáo dục của nước Nhật Bản. Hệ thống giáo dục mầm non và tiểu học của Nhật Bản không phân loại học trò và hoàn toàn không có bất kỳ xếp hạng nào. Tất cả trọng tâm của chương trình xoay quanh việc giảng dạy cho các em những tính cách tốt bên cạnh những nền tảng tư duy căn bản, sau đó là chuỗi những hoạt động thực hành để biến chúng thành thói quen thường ngày.
Một điều dễ nhận thấy trong mùa dịch Covid-19 này đó là việc tái sử dụng những đồ vật như thùng giấy, báo, ly giấy... vào các hoạt động trong lớp học. Có hai lý do để làm như vậy: trước tiên để thực hành đức tính tiết kiệm, sau đó là việc hạn chế sử dụng các đồ vật phải lau chùi sau khi sử dụng (vì lý do an toàn trong thời kỳ dịch bệnh).
Bộ môn nghệ thuật (Arts) cũng dạy các em các kỹ năng tuyệt vời với những đồ dùng có sẵn. Tinh tế nhất có lẽ là nghệ thuật gấp giấy (Origami). Bài học này không chỉ giúp các em trở nên khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mà còn còn bổ trợ các em những kỹ năng rất tuyệt vời. Theo đó, các em biết cách gấp đồ đạc rất gọn gàng và đẹp mắt. Một điều có lẽ là đặc trưng nhất và mang đậm tinh thần tiết kiệm của người Nhật là gấp các túi nilon. Các túi nilon được khuyến khích dùng lại nhiều lần và vì thế phải biết cách gấp sao cho dọn và tiện để mở ra trong lần kế tiếp.
Chính thầy cô, cha mẹ là những tấm gương sinh động để trẻ em bắt chước và làm theo. Để dạy trẻ em có những tính cách tốt, người lớn phải làm đúng trước tiên. Bởi vậy, nếu bạn có con đang trong độ tuổi đi học mà ở nhà vẫn duy trì những thói quen xấu, trong đó có phung phí thì sẽ rất dễ bị chính con cái của mình nhắc nhở.
Những thói quen tiết kiệm cơ bản nào mà trẻ em được dạy trên trường? Tôi sẽ nói về một số điều mà tôi được trải nghiệm trực tiếp trong trường mà tôi đang làm việc. Có ba thói quen tiết kiệm căn bản:
- Không phung phí đồ ăn. Bên cạnh dạy ăn uống đúng cách, thử các món ăn mới, các em luôn được khuyến khích ăn hết bữa ăn của mình vì khẩu phần ăn đã được tính toán vừa đủ cho các em. Thời gian một bữa ăn kéo dài từ 45 phút đến 60 phút nên thầy cô sẽ rất kiên nhẫn đợi các em ăn xong mà không vội vàng hối thúc khi trẻ em ăn hơi chậm.
- Không phung phí giấy toilet, giấy lau tay, nước và điện. Ngay từ khi một tuổi các em đã bắt đầu biết sử dụng toilet và luôn được giám sát và chỉ dẫn cho đến hết sáu tuổi. Cách sử dụng giấy vệ sinh cũng được chỉ dẫn để đảm bảo các em lau chùi sạch sẽ và không phung phí nhiều giấy. Khi rửa tay xong các em cũng chỉ được lấy tối đa hai miếng giấy chùi khô tay và phải chắc chắn rằng vòi nước đã được đóng. Cuối cùng là tắt điện toilet hoặc chỗ rửa tay.
- Tiết kiệm thời gian. Đây là đức tính rất giá trị được xây dựng trong trường học ở Nhật Bản. Việc giải thích lý do vì sao phải giữ trật tự, đúng giờ và tác phong nhanh chóng luôn được đảm bảo trong gần như mọi hoạt động. Các em luôn biết xếp hàng để chờ đến lượt và phản hồi lại những tương tác của người đối diện. Chính đức tính này đã tạo ra một tác phong công nghiệp khi các em lớn lên.
Dĩ nhiên, ở nhà các em cũng được ba mẹ dạy thêm rất nhiều tính cách tiết kiệm hay khác: như tiết kiệm tiền mua sắm đồ chơi, quần áo. Các em cũng rất sẵn lòng mặc quần áo và sử dụng những đồ đạc để lại của anh chị của mình.
Riêng có một thứ mà người Nhật không tiết kiệm đó là mua sách cho con cái và đầu tư cho giáo dục nói chung. Sách luôn được cập nhật mới nên những cuốn sách của năm trước chỉ còn dùng để tham khảo. Họ cũng đăng ký cho con cái tham gia những khoá học kỹ năng (như học võ, vẽ, ngoại ngữ, bơi, chơi đàn...) với mức học phí rất đắt đỏ. Như vậy có thể thấy cha mẹ người Nhật có thể tiết kiệm tiền mua quần áo, giầy dép, mũ, cặp ... cho con nhưng họ thường chi rất thoáng cho sách và các khoá học mà họ cho là cần thiết cho con cái.
Dẫu cho nước Nhật Bản là một nước có thu nhập thuộc nhóm đầu trên thế giới, người Nhật Bản vẫn coi đức tính tiết kiệm là một điều quan trọng và giáo dục chính là chìa khoá để cất giữ giá trị cao đẹp này trong suốt chiều dài lịch sử của người Nhật.
Bài viết này Ce Phan viết cho Vnexpress.net : https://vnexpress.net/tre-em-nhat-thuc-hanh-tiet-kiem-nhu-the-nao-4147244.html