“Sở dĩ ‘giáo’ không phổ cập là do học trò không được học; mà trò không được học là do thày giảng không tinh. Sở dĩ ‘pháp’ không lập được là do người giỏi không được dùng; mà người giỏi không được dùng là do thưởng phạt không công minh. Sở dĩ ‘chính’ không thi hành được là do kẻ lại không được liêm; mà kẻ lại không được liêm là do bổng lộc không đủ. Song, thày giảng không tinh, thưởng phạt không công và bổng lộc không đủ, duyên cớ đều do tình trạng thiếu thốn và sự thực thiếu thốn mà ra. Cho nên, dù có cấp bách lo việc này nhưng nếu không nắm được mấu chốt của nó thì dù ‘trí” có thể biết được mà ‘thế’ không thể làm được.”
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803)
Ngô Thì Nhậm là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, thơ văn đều trác tuyệt, ý thức về chiến lược thuộc loại xuất chúng và có công rất lớn khi khuông phò Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Mãn Thanh năm 1789.
Đoạn danh ngôn trên xuất phát từ lời tựa của tập “Cần Bộc Chi Ngôn” (tạm dịch là lời chân thành thô vụng), là bài khải ông dâng Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm vào khoảng 1776-1780, để luận về đạo trị nước gồm ba yếu tố then chốt là giáo, pháp, chính. Đời nay ta có thể hiểu là giáo dục, pháp lệnh và hành chính công quyền.
Khi luận về đạo trị nước, ông phê phán thực trạng thời Lê Mạt tại Bắc Hà, và kết luận ở khái niệm ngày nay ta gọi là kinh tế! Trong chưa đầy 140 từ đã có 17 chữ ‘không’!
Với cái nhìn quá hiện đại, Ngô Thì Nhậm dám nói thẳng: cái gốc là kinh tế èo uột nên cái ngọn là giáo dục bị héo hon. Ở giữa là sự lỏng lẻo bất nhất của luật pháp và sự mục nát của bộ máy công quyền - vì lương quá thấp, ai cũng chỉ nghĩ tới bổng – “kẻ lại không được liêm” là hiện tượng tham nhũng.
Cái “trí” là giải pháp kinh tế cho giáo dục, cho tương lai, lại bị kẹt ở cái “thế” là pháp và chính. Là ý thức hệ…
Tôi hỏi 100 người, thì đến 97 người bảo: Mông Cổ ấy à? nghèo lắm hả? Tới làm chi !...Sai.
Khái niệm về một nước Mông Cổ nghèo khó ngự trị trong đầu óc dân Việt Nam từ thời cùng phe XHCN.
(Nguồn hình minh hoạ www.bordersofadventure.com)
Nhà văn Tô Đức Chiêu bảo tôi:
"Tao đã đi Mỹ, Ai Cập, Ả rập xê út, Nga và Đông Âu, không kể châu Á như Tàu, Thái... Tức là gần hết thế giới, nhưng khi đi Mông Cổ, mới thấy mình khám phá ra một thế giới mới, nếu có dịp, tao đi 2 -3 lần nữa".
Tôi thấy thế nên cũng đú theo, đi Mông Cổ một chuyến. (Mở ngoặc ngay là, khi anh (du lịch) đến đâu, anh phải tự vấn ta đến đấy để làm gì, muốn biết gì. Nói chung là nên đi phượt. Tôi có bài học kinh nghiệm về việc này, có 1 cậu trẻ đi cùng đến thảo nguyên Mông Cổ, cậu thốt lên chán nản: Ơ, đâu cũng như đâu, mênh mông cả, chả thấy cái gì.
Nhưng vấn đề là cái gì?
Sau chuyến đi Mông Cổ, tôi rút ra kết luận, 30 năm nữa (hoặc hơn) không biết Việt Nam mình có đuổi kịp Mông Cổ hay không?)
Mông Cổ diện tích gấp hơn 6 lần nước Việt Nam, dân số hơn 3 triệu người (bằng 1/2 của thủ đô Hà Nội). Mà 1/2 dân số ở thủ đô Ulan Bato.
Hãy tưởng tượng hơn 1 triệu người còn lại ở rải rác trên lãnh thổ gấp 6 lần Việt Nam.
Mông Cổ có đặc biệt là có biên giới với Nga và Trung Quốc. Họ bị kẹp giữa 2 nước lớn, nên phải chọn 1, lịch sử đã chứng tỏ họ chọn đúng, chọn nước Nga để tránh nước Tàu kẻ thù. Chính chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vì khuất phục trước chính phủ Stalin mà phải công nhận Mông Cổ độc lập. Chuyện này chính phủ Mao cay cú ra mặt, công khai gọi Mông Cổ là Ngoại Mông, còn phần lãnh thổ Mông Cổ bị mất từ thời Nguyên triều, thì TQ gọi là Nội Mông (họ vẫn nhận đó là nước họ). Cấp độ cay cú ăn thua và nhòm ngó còn hơn một bậc so với Việt.
Người TQ chưa gọi Quảng Đông là Nội Việt, mặc dù vẫn dùng từ Việt gọi "Quảng", Việt ngữ là "tiếng Quảng", họ chưa gọi Việt Nam là Ngoại Việt. Nói thế để biết mức độ nguy hiểm chênh vênh của con ngựa Mông Cổ trước con sói Trung Quốc.
Ở Mông Cổ, tôi được nghe câu chuyện tiếu lâm. Một người Mông Cổ gặp một người Nhật. Người Nhật cám ơn người Mông, vì bài học của Nguyên triều, nên nước Nhật quyết định không chiếm Trung Quốc nữa. Nếu chiếm nó, có lẽ nước Nhật đã thành Trung Quốc rồi. Đó là một câu chuyện tiếu lâm cay đắng mà không thể cười.
Ân oán giang hồ với người Tàu thì rất nhiều. Chỉ kể 1 chuyện. Các công ty xây dựng ở Ulan Bato, và nói chung các công ty khác cần nhân công, thì đều thuê nhân công TQ, vì người TQ sinh sôi như cỏ dại, ở đâu họ cũng mò đến. Nên các công ty có quy định, chỉ được thuê dưới 6 tháng, mà trong 1 năm không được thuê quá 1 lần. Nên người làm thuê phải đi về TQ ngay sau khi hết hợp đồng. Cảnh sát Ulan Bato rất dễ dãi với người Việt sinh sống ở thủ đô của họ, hình như có khoảng 7000 người, còn riêng người TQ thì phải thống kê rất cụ thể. Người bạn Mông Cổ nói với tôi: Việc lớn nhất của cảnh sát là đuổi người Trung Quốc hết hạn cư trú. Đúng vậy, họ không có tình trạng kẹt xe, không có tệ nạn nhiều, việc chính là không để lọt một cái trứng tu hú. Chuyện này 30 hay 50 năm nữa, Việt Nam cóc làm được, mà cũng chả làm.
(Một cuộc phỏng vấn hay của đài China Uncensored về Mông Cổ)
2.
Nhìn trên phim ảnh, thấy thảo nguyên là những dải đất trùng điệp, cây cỏ lưa thưa, nếu chỉ có thế, chưa biết gì về thảo nguyên Mông Cổ cả. Hồi tôi đi tầm tháng 7 dương lịch, là tháng đã hết cỏ rậm. Cỏ rậm thì đến ống chân, đến đầu gối, còn khi chuẩn bị vào đông, cỏ bị đám gia súc gặm gần hết. Chỉ còn cỏ thấp và cỏ tái sinh.
Nói từ "cỏ" với người Việt, cũng không ổn. Cỏ của Việt Nam là thứ chả để làm gì. Điều này lỗi ở các nhà làm ngôn ngữ khoa học, địa lý. Đáng lý nên dùng từ "thảo mộc thân mềm" hay cái gì đó khác với "cỏ". Cúi nhìn xuống, hàng trăm hàng nghìn loài cây gọi là cỏ rất khác nhau, riêng hình lá cũng thiên hình vạn trạng. Nếu vò vài cái lá rồi đưa lên mũi, sẽ thấy nhiều mùi vị rất khác. Mùi thơm thoang thoảng, mùi hắc, mùi nồng... Thực sự đó là một thế giới cây thuốc và loại cây như rau thơm ở VN, chứ không phải cây cỏ thông thường. Gia súc Mông Cổ từ hàng nghìn năm nay ăn thứ cỏ đó. Sau khi đi thảo nguyên, tôi mới lý giải được việc ở Mông Cổ, người ta ăn rất ít rau, ăn rất nhiều thịt, ngay cả người Việt ở xứ ăn rau, đến Mông Cổ ăn toàn thịt, mà tiêu hóa bình thường, không bị táo bón. Bởi vì lũ gia súc ăn thứ cỏ thiên nhiên hoang dã bổ béo thơm lừng như hàng nghìn năm nay nó vẫn ăn. Không như gia súc ở nơi nuôi công nghiệp.
Mông Cổ ngày nay vẫn du mục và người ta tự hào vì nếp sống du mục này. Ông Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông -Việt nói tiếng Việt sõi như người Việt, bảo tôi, rất may là thảm họa tập thể hóa, định canh định cư xảy ra rất nhanh, rồi thảo nguyên lại có sức sống quay lại nếp xưa.
Nếu ai đã đọc Tô-tem sói, của một nhà văn Trung Quốc (quyển này vang dội một thời trên văn đàn TQ) thì biết thảo nguyên Nội Mông đã bị tàn phá kinh khủng như thế nào. Họ dồn nén dân du mục vào hợp tác, triệt phá cách sinh hoạt truyền thống, mang hàng sư đoàn quân đội bắn sói. Sói là vật thờ của người Nội Mông, khi người chết, người ta kéo xác cha mẹ để ra một chỗ cho sói ăn. Người TQ Mao-ít bắn sói, thế là thỏ làm giặc, lại giết thỏ, lạc vào cái vòng quẩn, rồi đưa người Hán đến sinh sống, khiến thảo nguyên Nội Mông bị tiêu diệt. Trong quyển sách ấy, tác giả cũng nói, nhìn sang Ngoại Mông xanh tươi mà tiếc...
Nhìn thảo nguyên thì mênh mông, nhưng hoang dã hàng trăm thứ thú hoang vẫn ngày đêm sinh sống, tuân thủ cân bằng sinh thái của nó.
Người Mông Cổ ngày nay có xe ô tô tải, có điện thoại di động, kéo theo cái nhà, và đàn gia súc, đi lang bạt trên thảo nguyên theo nhu cầu của gia súc. Thảo nguyên mênh mông, mình nhìn đâu cũng như đâu, nhưng chúng tôi đã được một chú bé 12 tuổi đưa từ thị trấn, đi xuyên 25 km đến đúng chỗ lều của bố mẹ chú bé. Hôm đi thảo nguyên, chúng tôi được đón tiếp Chủ tịch huyện đến chơi, cũng vì biết có khách Việt. Ông nói huyện ông có gần 80 hộ, diện tích huyện, khi đó làm phép so sánh, gần bằng tỉnh Hưng Yên cộng với Thái Bình. Chủ tịch huyện biết cả 80 hộ luôn. Quy định của họ chăn thả không giới hạn, nên có lúc có hộ gia đình chăn thả ở huyện khác (miễn là đăng ký vẫn ở huyện này). Chủ tịch người Đảng Dân chủ, alo gọi đồng chí Bí thư huyện ủy Đảng Nhân dân (đảng cộng sản cũ) thì đồng chí đang chăn ngựa, bèn cưỡi ngựa về. Bí thư huyện ủy đảng nào cũng làm nông dân cả và chả chức vụ gì, cười hề hề đúng là ông chăn ngựa. Riêng chuyện này, 50 năm nữa Việt Nam có theo kịp không?
3.
Người Mông Cổ có một niềm hãnh diện đã mất, đó là đã từng bá chủ thế giới, và còn một niềm kiêu hãnh vẫn còn, đó là sữa ngựa.
Thế giới văn minh và ở các nước phát triển có chỉ tiêu bao nhiêu lít sữa bò cho đầu người, thứ sữa đó người Mông Cổ chỉ làm lương khô, làm nguyên liệu chế biến, vì họ uống sữa ngựa. Hình như chỉ Mông Cổ dùng sữa ngựa làm thực phẩm chính yếu. Nó là nguồn gốc sức mạnh của các chiến binh từ xưa, và khiến người MC cao lớn.
Ngựa là gia súc chủ yếu ở thảo nguyên. Một hộ thường có vài trăm đến vài ngàn ngựa, thêm cừu và dê. Bao giờ cừu cũng đi kèm dê. Mùa đông cừu nằm trên giữ ấm cho dê moi cỏ chia nhau. Không có cừu dê chết rét, không có dê cừu chết đói. Kiểu chăn thả thiên nhiên ấy khác xa nông trại hiện đại. Kiểu vắt sữa ngựa cũng khác vắt sữa bò. Vì khi vắt sữa, luôn luôn có con ngựa con đứng cạnh. Người MC tôn thờ ngựa vì cả đức tính này, không buông tuồng vô cảm như bò, cứ vắt là ra sữa bất kể thế nào. Sữa ngựa làm bia, làm thức uống, nên con ngựa là đầu cơ nghiệp. Bò chỉ là loại thêm. Bò MC lông dài như voi mamut. Bây giờ cũng thoái giống, người MC buồn vì bò lông ngắn, còn gì là bò nữa.
Gia súc nuôi, thịt là thứ phẩm. Chính phẩm là lấy lông và da. Len MC đắt kinh khủng. Hình như hàng lông da là chủ lực xuất khẩu.
Cái lều Mông Cổ thật sự là một thứ thú vị. Cứ nói "lều" thì khó hình dung, đến mới thấy đó là cái biệt thự giữa thảo nguyên. Bây giờ lều có nhiều loại, từ 300 đến 30.000 đô Mỹ. Người TQ quá khôn, họ làm lều bán cho người Mông Cổ.
Trong cái lều Mông, tài nhất là cái bếp ở chính tâm nhà, tâm vòng tròn. Chất đốt bằng phân gia súc, thông hơi làm nhiệm vụ trụ chống giữa. Vào lều không nhận ra có bếp.
Người nông dân du mục cũng có vấn đề nan giải, đó là sinh ra và nuôi dạy trẻ. Du mục xa trung tâm thị trấn, nên nếu đẻ bất thường thì cấp cứu rất khó. Khi con 6 tuổi, phải cho nó đi học, thì nhà mất 1 người thường là mẹ hay chị lớn phải đưa lên thị trấn làm 1 cái lều ở nuôi con 1-2 năm mới yên tâm gửi con học nội trú. Ở các thị trấn thị tứ cứ thấy các cụm lều, đó là những người đi nuôi con học. Vì vậy, mà nhà nghèo hoặc quan điểm cũ chỉ cần đọc chữ, trẻ thất học.
Hình như chính việc hiếm người mà du mục có truyền thống quý người. Phụ nữ đẻ con là quý, con ai không quan trọng. Mấy ông Mông Cổ bảo, cộng đồng du mục có lệ, khách quý cao tuổi thì chủ nhà mời đầu dê. Thịt con dê, cái đầu là quý nhất. Còn khách trẻ và trung niên thì chủ nhà bảo con gái sưởi ấm cả đêm. Tôi không ở qua đêm ở thảo nguyên, nhưng nghe kể lại, các nhà văn Trần Nhương, Tô Đức Chiêu, Thúy Toàn có ngủ đêm thảo nguyên và được coi là khách quý trung niên. Vấn đề là các bác ấy có chịu đựng được mùi mồ hôi người ăn thịt cừu, uống sữa ngựa và 3 tuần mới tắm không thôi.
Người MC rất có ý thức giữ gìn môi trường thảo nguyên. Tôi khá ngạc nhiên. Mọi người picnic thu dọn rác tống lên xe về bãi rác ngoại ô vứt. Họ nói tivi có nhiệm vụ quan trọng nhất là tuyên truyền giữ sạch thảo nguyên. Và việc này chỉ có từ khi cách mạng dân chủ đa đảng. Người lái xe dẫn chúng tôi mặc dù xe chật, kiên quyết mang bao tải rác trên xe để về đến bãi rác ngoại ô.
Ở Ulan Bator, anh là công chức, lập tức được cấp 0,99 ha ở ngoại ô làm nhà nghỉ. Cuối tuần, chiều thứ 6, lũ lượt xe rời thủ đô ra ngoại ô. Thứ 7, Chủ nhật thủ đô vắng thênh thang. Tối CN, lại rồng rắn về thành phố. Nếu không phát động giữ thảo nguyên thì chả mấy chốc thảo nguyên nghìn đời thành bãi rác. Và họ đã làm được rất tốt. Tương tự thảo nguyên của họ là rừng là biển của người Việt, than ôi, chúng ta đã cư xử như là tự phá hủy cơ thể!
Thật tình tiếng Việt quá hay
Vì đầy nhạc tính và đầy thi ca
Qua năm thinh sắc mượt mà
Đơn âm thêm nữa hóa ra tuyệt vời
Khác nào nước chảy mây trôi
Khác nào chim hót khiến người ngẩn ngơ
Tràn đầy linh hoạt ai ngờ
Đã không cứng nhắc lại thơ ngập tràn
Điển hình Kiều của Nguyễn Du
Lại thơ lắc léo kiểu Hồ Xuân Hương
Huyện Thanh Quan mãi đường đường
Một nòi quý tộc ngàn phương khó bì
Đoàn Thị Điểm thôi nói chi
Thơ như rồng phượng khác gì nữa sao
Quả niềm đất nước tự hào
Nếu không tiếng Việt lẽ nào thế đâu
Nay còn chữ viết mới hay
Bởi từ ngẫu hứng người Tây đưa vào
Đường xa sóng vượt dạt dào
Qua nhiều thế kỷ mới hầu tạo ra
Trở thành kết quả kiêu sa
Hệt như hoa đẹp cắm vào bình xưa
Đúng là duyên nợ chẳng thừa
Như Trời sắp đặt dễ là người sao
Pina đúng thật đỉnh cao
Tìm ra Quốc ngữ tơ duyên ban đầu
Kế theo De Rhodes đến sau
Hợp cùng một gốc từ Bồ Đào Nha
Làm nên duyên kiếp mặn mà
Như rồng thêm móng như hoa thêm màu
Khiến giờ Tiếng Việt trước sau
Như càng chắp cánh vượt hầu thời gian
Ngàn sau thêm mãi vẹn toàn
Bởi đầy vẻ đẹp quan sang lạ lùng
Giống mây thêm được gặp rồng
Rồng mây một hội lại càng uy nghi
Ai ngờ lịch sử mấy khi
Tạo thành Quốc ngữ rõ thì ngày nay
Đâu thua gì chữ Phương Tây
Bởi vì hiện đại khó tày nhiều nơi
Cứ càng phát triển tuyệt vời
Càng thêm vẻ đẹp trong đời ai hơn
Thật là hạnh ngộ nguồn cơn
Đông Tây kết tụ hoa thơm bạt ngàn
NON NGÀN
(23/6/17)
===================
Tác giả: Ts Nguyễn Tường Bách
Sự ra đời của CHỮ QUỐC NGỮ
Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . .
Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.
Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.
Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế.
Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.
Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).
Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina.
Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.
Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.
(Trích trong email 22/06/2017 của Gs Huỳnh Chiếu Đẳng)
Tôi đọc được bài viết "Thế nào là 'thông minh theo kiểu Việt Nam và Trung Quốc" tại trang báo www.tintucvn.net và học được những ví dụ thú vị về những hành vi được xem là thông minh theo cách hiểu của một bộ phần người, nhưng lại là phần tín nhiệm thấp trong mắt những người khác.
------------
Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?
Nhiều người Việt Nam và Trung Quốc có cùng một suy nghĩ giống nhau, đó là hay cười nhạo người Tây phương ngu ngốc, không hiểu chuyện đời, “não không có nếp nhăn”, và bản thân họ lấy làm tự mãn. Vậy rốt cuộc thông minh theo kiểu người Việt Nam và Trung Quốc là như thế nào?
Gần đây, một kênh truyền thông New Zealand đã đăng một bài viết nói về “thông minh kiểu Trung Quốc” và nhận được sự chú ý của đông đảo người sử dụng internet. Tác giả bài viết tự nhận là người Hoa, đã nhận định rằng “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng trắng đen hay thị phi, không cần biết thật giả hay đúng sai, có sơ hở liền lách vào, có tiện nghi liền chiếm lấy. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng chính nghĩa hay tà ác, bất cứ lúc nào cũng có thể vì bảo hộ bản thân mình mà làm trái lương tâm. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là để cho người khác phải phó xuất và gặp nguy hiểm, còn bản thân mình những gì mười phần có lợi sẽ giành lấy hết. Kỳ thực, “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không nói đến thành tín, ức hiếp người thiện lương, chính là các giá trị đều đã đảo lộn, không xét đến quy tắc…
Nhiều người Việt có người thân là Việt Kiều ở Mỹ, có thể đã nghe câu chuyện về việc hàng hóa sau khi mua ở Mỹ có thể được trả và lấy lại tiền mà không cần phải giải thích lý do. Vì vậy, nhiều người khi chuẩn bị tham dự một sự kiện nào đó, liền đến “mua” một bộ quần áo, sau khi tham dự sự kiện xong rồi, lập tức mang trả lại quần áo để lấy tiền về.
Hệ thống bán hàng ở Mỹ còn có một chính sách đáng chú ý, gọi là Price Match. Với chính sách này, nếu bạn mua một sản phẩm sau đó chứng minh được sản phẩm này bán giá rẻ hơn giá tại cửa hàng nào khác, thì có thể được mua sản phẩm với mức giá tương đương mức giá mà bạn tìm thấy. Do vậy, có một số người, khi đi mua hàng với giá đắt hơn những nơi khác, họ không hề mặc cả, mà lại chọn những màu sắc hay kích cỡ (mà ở các cửa hàng khác không có), sau đó khi tìm được cửa hàng nào có mức giá rẻ hơn thì sẽ mang hóa đơn quay lại nơi mua hàng để được giảm giá.
Những người này dương dương tự đắc với hành vi của bản thân, đi đến đâu cũng tự cho rằng bản thân mình thông minh, thậm chí còn đặt câu hỏi sao những người khác quá “ngu ngốc”, không biết lợi dụng “kẽ hở” này.
Coi việc chiếm tiện nghi của người ta là “thông minh”, coi gian xảo là có “năng lực lớn”… mọi giá trị dường như đều đảo lộn.
Bài viết của tác giả người Hoa trên truyền thông New Zealand còn liên hệ đến tỷ phú Warren Buffett. Rất nhiều nhà đầu tư hỏi về tiêu chí chọn đầu tư cổ phiếu của ông Warren Buffett, và thông thường ông hay nhấn mạnh rằng ông rất coi trọng sự thành tín của giám đốc điều hành công ty, nếu không phải công ty làm ăn chân chính, ông nhất định sẽ không lựa chọn đầu tư. Với ông, lợi nhuận không phải là yếu tố hàng đầu, mà là chữ tín.
Một người Hoa đưa đứa con nhỏ mới 3 tuổi đến Mỹ du lịch và ở tại nhà người thân. Người nhà đã đưa cho người Hoa này một chiếc ghế ngồi ô tô dành cho trẻ nhỏ và nói: “Ở đây quy định trẻ nhỏ khi đi xe nhất định phải dùng loại ghế này, tôi đưa cho anh dùng, nhưng vì là ghế đi mượn, nên anh phải giữ gìn cẩn thận, vì chúng ta sẽ phải trả lại cho người ta.”Hai tuần sau khi không dùng xe ô tô nữa, chiếc ghế này đã được đem đến trả lại cửa hàng. Người bán hàng không hỏi lý do tại sao, chỉ đơn giản là đưa đủ số tiền cho người trả hàng. Người nhà liền tự hào nói: “Các cửa hàng ở Mỹ đều như vậy, nếu mua hàng trong vòng 2 tuần thì đều có thể mang hóa đơn đến và trả lại, do đó chúng tôi thường đến đây ‘mượn’ một số đồ đạc. Nhiều người Đại lục thậm chí còn mượn cả TV. Anh nói xem, người Mỹ có ngốc hay không chứ? Trả lại hàng vô điều kiện đúng là sơ hở quá lớn, vậy mà họ còn chẳng biết điều đó!”
Một năm sau, người Hoa này đến Nhật Bản, một số bạn bè đồng hương ở Nhật đã tiếp đón và dùng ô tô để đi lại. Người Hoa này hỏi: “Tokyo đất chật người đông, có phải là rất khó đỗ xe không?”
Đồng hương trả lời: “Không nghiêm trọng đến như vậy đâu, chính phủ quy định cần có chỗ để xe trước rồi sau đó mới được phép mua xe, vì vậy mà không có nhiều xe như anh nghĩ đâu.”
“Ồ, vậy tức là anh có một bãi đỗ xe riêng sao? Chắc là phải đắt đỏ đến mức cắt cổ có đúng không?”
“Anh nghĩ là ai cũng ngốc giống người Nhật Bản sao! Muốn mua xe thì trước tiên đi thuê một chỗ ở bãi đỗ xe, sau khi mua xe xong thì trả lại chỗ đó, vậy chẳng phải là vấn đề được giải quyết hay sao?”
Hai ngày sau, một số bạn bè người Nhật đến đưa người Hoa này đi chơi, họ đi bộ hoặc là đi bằng tàu điện ngầm. Những người bạn Nhật phân trần rằng: “Tokyo mua xe thì dễ, nhưng tìm chỗ đỗ xe thì không dễ dàng gì. Do đó, anh chịu khó đi tàu điện ngầm vậy nhé.”
Người Hoa này lập tức truyền cho anh ấy cách để giải quyết vấn đề. Không ngờ rằng anh ấy đã không “ngộ đạo” mà còn dửng dưng nói: “Nếu muốn lợi dụng sơ hở, thì có nhiều cách lắm. Ví dụ như mẹ tôi sống ở quê, nếu muốn thì có thể dùng hộ khẩu cũ là mua được xe. Nhưng thực tế thì tôi định cư ở Tokyo, không có chỗ đỗ xe mà lại mua xe, vậy thì những người hàng xóm sẽ nhìn tôi như thế nào? Lái xe đi làm, tôi phải đối diện với đồng nghiệp ra sao? Cấp trên và những người đàng hoàng sẽ không làm như vậy.”
Cơ chế trả lại hàng vô điều kiện ở Mỹ và những quy định đầy lỗ hổng ở Nhật, đều được xây dựng trên cơ sở “tín nhiệm”. Nếu sự “tín nhiệm” sụp đổ, thì xã hội cũng sẽ có thể sụp đổ. Do đó, ở xã hội Tây phương, người ta có thể tha thứ cho các chính trị gia làm sai, nhưng không thể tha thứ cho những chính trị gia nói dối.
Nếu như chúng ta “giả đổi thành thật, thật cũng giả”, mỗi người đều hư hư thực thực, thì toàn xã hội sẽ vận hành trên cơ sở “hoài nghi”. Tư duy ảnh hưởng đến hành vi, mà hành vi của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng rộng ra đến dịch vụ kinh doanh và vận hành xã hội.
Khi đi tàu điện ngầm tại Rome bạn sẽ phát hiện rằng có máy bán vé nhưng không có soát vé. Chắc hẳn bạn sẽ thấy lạ lắm phải không? Làm thế này làm sao kiểm soát được xem hành khách lên tàu có mua vé hay không? Vận hành tàu điện ngầm thế này chẳng phải sớm muộn gì cũng bị lỗ hay sao?
Đây chính là cách nghĩ quen thuộc của chúng ta, luôn liên tưởng mọi chuyện theo kiểu khôn vặt hoặc vì tham lợi nhỏ cho bản thân mình. Đối với người Ý mà nói, nếu chúng ta hỏi câu hỏi này thì thật kỳ lạ. Đi xe có thể không mua vé chăng? Đi xe làm sao có thể không mua vé cho được? Cách nghĩ, cách tư duy của hai bên quả có sự khác biệt lớn.
Nếu như bạn thực sự muốn biết có thể đi tàu mà không cần mua vé hay không, thì câu trả lời là có thể, hoàn toàn có thể lên tàu đi một vài trạm, nhưng phải đảm bảo không để cho giới quản lý ở Ý biết được, nếu biết họ nhất định sẽ phạt bạn. Và sau này nếu bị phạt nhiều lần, có thể tạo thành tiếng xấu ở nước ngoài, thật sự là cái được không bõ cho cái mất!
Xây dựng tín nhiệm không dễ, nhưng điều này lại thực sự quan trọng! Mức độ tín nhiệm lẫn nhau càng cao, thì quản lý sẽ càng nới lỏng hơn. Nếu như đi đúng đường, thì sẽ không sợ phải đi xa!
Khi 30 tuổi, bạn đã có thể tùy theo bản lĩnh của mình mà chịu trách nhiệm cho những sự việc mình phải đảm đương, cũng như đã có thể tự mình xác định mục tiêu trong cuộc sống và phương hướng phát triển. Nói đơn giản, ở cái tuổi 30, bạn đã có thể thản nhiên mà đối mặt với hết thảy mọi thứ. Ba phương diện khái quát mà một người 30 tuổi đã có thể tạo lập cho chính mình, đó là lập thân, lập nghiệp và lập gia.
Lập thân hay chính là xác định phẩm cách và sự tu dưỡng bản thân, bao gồm ba phương diện: tu dưỡng tư tưởng, hàm dưỡng đạo đức và bồi dưỡng năng lực.
Tự mình biết vươn lên chính là căn bản của đạo lập thân, chớ vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà trông nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ, cũng đừng trông mong chạy vạy ở người khác, vì đó chẳng khác nào biểu hiện của sự mềm yếu nhu nhược. Lập thân đối với mỗi cá nhân thì yêu cầu tối thiểu nhất chính là đặt chân trong xã hội.
Lập nghiệp chính là tự mình xác lập sự nghiệp của bản thân. Người 30 tuổi ít nhất cũng đã phải có được công ăn việc làm tương đối ổn định. Lập nghiệp không những là phương thức mưu sinh mà còn là chuẩn bị hoàn thành trách nhiệm đối với xã hội.
Lập gia chính là xây dựng gia đình của riêng mình. Cạnh tranh trong xã hội hiện nay đang rất kịch liệt, nên các thanh niên thường hay trì hoãn chuyện hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, khi đã bước vào tuổi 30, việc kết hôn không còn là sớm nữa. Còn chuyện lập gia trước lập nghiệp sau hay lập gia sau lập nghiệp trước, đều là tùy thuộc vào bản thân mỗi người, cũng không quan trọng chuyện trước sau. Người thanh niên tất yếu phải có khả năng đảm đương trách nhiệm gia đình lẫn xã hội, thế nên hoàn thành sớm hẳn là tốt hơn.
Đối với người trẻ tuổi, tam thập nhi lập chính là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, giữa thực tế và kỳ vọng của bản thân chúng ta thường có khoảng cách rất lớn. Điều này là tất nhiên đối với trẻ em nước ta vốn luôn được cưng chiều khi gặp phải áp lực trong công việc. Đây là chuyện vốn rất thường tình.
Trích: Hành trình của cuộc đời (The sound of hope)
Cơn mưa bất ngờ chiều tháng Ba, khiến không ít người ngạc nhiên. Thành phố tối sầm như một ngày tháng 7. Mưa lớn đến mức như trút nước, như muốn tự mình làm sạch đời sống Sài Gòn. Mưa xối xả như muốn đẩy hết bụi bặm và những ngổn ngang chồng chất vừa được tạo ra từ chiến dịch đầy sóng gió trong đời sống và dư luận dân chúng, vốn được gọi là “dọn dẹp vỉa hè”.
(Một khoảng trời trong xanh thu mình trong một vũng nước nhỏ - Ảnh minh họa của Ns Tuấn Khanh)
Trong những bức ảnh được giới thiệu trên mạng xã hội, người ta nhìn thấy đoàn quân ô hợp của ông Hải, phó chủ tịch quận 1, đã chuốt nhọn và nham nhở bậc tam cấp của quán café Starbuck nằm ở ngã sáu Phù Đổng Thiên Vương. Bức ảnh nói thật nhiều điều về một chiến dịch thị uy và duy ý chí, phia trước là sự hài lòng vô minh của một nhóm người, và phía sau là tiếng thở dài của đám đông.
Cuối tháng ba, những dòng tin vội vã và ít ỏi cho biết ông Hải tạm dừng các chuyến hành quân “dọn dẹp” của mình, lừng lẫy không khác gì các cuộc tuần tiễu trên biển Đông. Có bình luận là do công việc đã thành công bước đầu và ông Hải giao lại cho các quận. Nhưng cũng có lời bàn rằng ông Hải phải thu mình lại, trước những chỉ trích không vừa và các dấu hiệu sai phạm ngày càng lộ rõ.
Cơn mưa chiều tháng Ba quá lớn, tạt ướt cả khoảng nhà trước của một người dân trên đường Hồng Thập Tự cũ. Vừa che, vừa lau, người đàn ông này liên tục quát lên một mình “mẹ cha tụi nó, cái mái hiên xếp thì có ngăn cản gì vỉa hè mà tụi nó ập vô tháo rồi lấy?”.
Trong những bức ảnh ghi lại về chiến dịch này, có hình ảnh một cụ già ngồi im lặng nhìn bậc tam cấp của nhà hát Nguyễn Văn Hảo có gần trăm năm bị đập đi. Bức ảnh gợi nhớ một truyện ngắn của Pearl Buck (1892-1973) về một chiến dịch dọn dẹp nhân danh phát triển ở Trung Quốc, mà một cụ già ngồi nhìn những ngổn ngang gạch đá bị đập phá trong hiện thực của mình và ngơ ngác lắng nghe giấc mơ của những nhà làm chính trị. Cụ già không hiểu. Cụ khóc. Với cụ, chính trị cùng mọi thứ đó cũng chỉ là rác.
Mọi người dân Sài Gòn đều yêu thành phố của mình. Và chắc chắn ai cũng vỗ tay cho một đổi thay thiết thực và hợp lý cho thành phố mà mình đang sống. Nhưng khi vỗ tay, có không ít người chậm nhịp dần, buông xuôi vì nhận ra rằng đằng sau của tiếng hô đầy âm điệu chính nghĩa ấy, là những điều gì đó rất chính trị. Loại chính trị xa vời đời sống của người dân. Loại chính trị cũng như rác.
Chiến dịch dọn dẹp ấy làm dậy lên những lời bàn từ vỉa hè, có thể không hoàn hảo như một chứng cứ, nhưng đó là những lời bàn từ lòng dân bật ra, cũng không kém thú vị để lắng nghe.
Trong chiến dịch đập phá của một người miền ngoài trực tiếp chỉ huy, người ta nhìn thấy có bóng của vị bí thư - cũng ở miền ngoài - đang nắm quyền lực ở Sài Gòn. Chiến dịch như một phương án tái cấu trúc lại quyền lực giữa một tình thế mà người có quyền ấy cảm thấy không vui vì sự bất phục ở chung quanh.
Ông Hải là một giải pháp phá băng, và thị uy, và phần nào giúp giải tỏa được những sự tức giận của vị bí thư cảm giác mình lạc lõng. Thậm chí, chính ông Hải cũng là người lạc lõng đáng thương khi tự mình đương đầu với tất cả trong chiến dịch, trong cơn bão phản ứng từ mọi phía. Trong cuộc họp giao ban ngày 11/3, khó chịu vì các quan chức địa phương ở Sài Gòn thiếu hợp tác với ông Hải, bí thư Thăng phải lớn tiếng “Các anh phải xuống đường, đồng hành cùng ông Hải, đừng để dư luận bức xúc”. Có vẻ như nhiều quan chức Sài Gòn không muốn dính vào các hoạt động bị nhiều bình luận là “bất nhân” ấy.
Trong bối cảnh Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn đều bị đồn đoán là có hệ thống cát cứ - và nếu có - thì ắt hẳn Sài Gòn như đang sở hữu một tính “cát cứ” rất riêng và thâm trầm của mình. Đến lúc này, người ta phải tự hỏi là không biết là báo chí ở TP đã cỗ vũ nhiệt tình cho chiến dịch chỉ tay của ông Hải, hay là vô hình trung lẳng lặng thu thập các chứng cứ bất lợi cho ông Hải, bao gồm cả những phát ngôn có thể bị khởi kiện về Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Và có vẻ như đòn quyết định được tung ra vào ngày 26/3, khi có nhận định rằng những việc làm của ông Hải, thông qua sự yểm trợ của ông Thăng là “không có luật pháp”, được phát đi từ trang cá nhân của ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam, Con trai trưởng của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh. 3 ngày sau lời nhận định mạnh mẽ và trực tiếp bất ngờ này, ông phó chủ tịch quận 1 tuyên bố tạm dừng.
Lời nhắn của ông Lê Mạnh Hà ghi rằng “Thế kỷ 21 mà vẫn còn nghe tiếng búa đập vào văn hóa của Hồng vệ binh, nhưng ghê rợn hơn bởi tiếng hò reo ủng hộ từ những tờ báo mạng” có một sức mạnh khó lường. Lý do không phải chỉ bởi từ một người có chức vụ cao trong hệ thống, mà quan trọng vì ông Hà được coi là một người hết sức liêm khiết trong bộ máy. Sự lên tiếng này, không khác gì đòn điểm huyệt vào chiếc đồng hồ Patek Philippe và chiếc điện thoại Vertu mà ông Hải đã im lặng tháo đi ngay trong những ngày đầu.
Ông Hà viết “người ta coi dân như kẻ thù, vỉa hè như chiến trường, TPHCM như trong thời chiến và không có luật pháp”.
Vang lên từ vỉa hè, sau những tiếng búa tiếng chày nện đinh, người ta nói rằng có thể đó là lương tâm của những người có trách nhiệm trước viễn cảnh Sài Gòn hoang tan bật lên tiếng. Nhưng cũng có người nói rằng đó là những phần phông màn phía trước của các câu chuyện thâm sâu khó lường đang diễn ra trước Hội nghị Trung ương 5, khóa 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 5 sắp tới. Dĩ nhiên đó chỉ là những lời bàn từ vỉa hè, như một loại rác của thời, rác của cuộc đời, rác của chính trị.
Dĩ nhiên, trong chiến dịch của ông Hải, không phải là không có người thật sự ủng hộ. Sau 42 năm, chứng kiến sự bất toàn và bất nhất trong việc lãnh đạo, người dân Việt Nam nói chung đã quá mệt mỏi và luôn bừng dậy trước một hình ảnh nào đó mang lại cho họ hy vọng rằng sự tốt đẹp nhất đã đến. Thậm chí, để được tốt đẹp, họ chấp nhận những sai lầm ban đầu của những người dám làm. Thật không có gì tàn nhẫn hơn khi lợi dụng sự khổ đau của con người Việt Nam đang vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, rồi mị dân, dẫn dắt họ đi về những lý lẽ biện luận lạc lối với nền văn minh và luật pháp.
Và trong các chiến dịch pha màu sắc dân túy cực hữu như vậy, luôn có một đám đông được sinh ra, loạn lạc và tự diệt trong những sự điên cuồng ủng hộ và điên cuồng đập phá. Thời của Hitler, để có một đám đông “ghê rợn” như ông Lê Mạnh Hà mô tả, nước Đức đã tạo ra các đoàn thanh niên Quốc xã như Deutsches Jungvolk và Bund Deutscher Mädel. Thời của Mao Trạch Đông, cũng có những đám đông “ghê rợn” như vậy từ Hồng Vệ Binh.
Trong lịch sử, từ những câu chuyện và con người đã đi qua hỗn loạn ấy, chiến dịch ấy… - nếu chúng ta lùi lại để ngắm nhìn – thì thấy mọi thứ đều chỉ là rác của một thời.
Cám ơn cơn mưa tháng Ba. Làn gió mát và những dòng nước như đang cố rửa sạch rác rưởi còn lại từ những ngày qua. Sài Gòn, thành phố của chúng ta vẫn còn đó, dù như thế nào đi nữa, thì hôm nay đã lại dầy thêm trong lịch sử hơn 300 năm thăng trầm, về những chuyện kể từ vỉa hè. Chuyện kể về rác của một thời.
Bài viết của tác giả: Phạm Minh Tùng, đang du học tại Baden-Württemberg, CHLB Đức. Bài báo này được đăng tại báo BBC Tiếng Việt để góp ý một góc nhìn mới về giáo dục tiếng Hán trong chương trình học chính khóa tại Việt Nam.
Ngược dòng lịch sử cuối thế kẻ XIX, nhà duy tân tiên phong lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong khi chủ trương xây dựng chữ Quốc Ngữ ở Việt Nam, đã không dùng chữ Quốc ngữ do các nhà truyền đạo phương Tây sáng tạo.
Ông chủ trương lấy chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận lợi ích của chữ Quốc Ngữ được latin hóa. Trong khi đó, với chữ Hán, phải “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách), chữ Quốc ngữ chỉ cần học hết lớp một (theo chương trình giáo dục Việt Nam) cũng đã có thể đọc thông viết thạo.
Lịch sử cũng đã chứng minh rằng chữ Quốc ngữ đã giúp Việt Nam xóa nạn mù chữ sau năm 1945, và quan trọng hơn cả là giúp Việt Nam phân định sự khác biệt đối với anh bạn “láng giềng lâu năm”.
Lịch sử đã sang trang, Việt Nam ngày hôm nay là sự năng động và toàn cầu hóa.
Và trong sự toàn cầu hóa này, Việt Nam cần phát huy và tận dụng lịch sử, ngôn ngữ lâu đời để tiếp cận tinh hoa và kiến thức Đông Á một cách dễ dàng hơn.
Nền tảng cường quốc
Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài viết "Chữ Tây và Chữ Hán chữ nào hơn?" (theo Bán Nguyệt san Kiến thức ngày nay, 1989), cho rằng từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, người châu Âu yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC - thứ chữ ghi âm là hợp lý nhất.
Nhưng từ sau những năm 30 của thế kỷ XX, sau các công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan điểm chữ viết ghi âm ưu việt hơn đã phải nhường chỗ cho quan điểm “tổ hợp âm” chữ viết.
Năm 1978, một nhóm học ở Mỹ đã làm thí nghiệm, họ mở một lớp gồm trẻ em bị chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng tiếng Anh nhưng bằng chữ Hán.
Tác giả dẫn lời học giả nước ngoài cho rằng chữ Hán là một nền tảng của sự thịnh vượng của một số cường quốc châu Á ngày nay.
Ví dụ: “He came to a high mountain”, chữ Hán là 他 到 及 一 高 (tha đáo cập nhất cao sơn), thì sau 1 năm, các em đọc và viết được 1.600 từ đơn và về khả năng hấp thụ tri thức tỏ ra không 'đần độn' chút nào.
Thậm chí kết quả học tập có phần trội hơn các em tiểu học bằng chữ ABC. Điều này có thể lý giải bời vì, đối với loại trẻ khuyết tật, khả năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn khả năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích).
Để chứng minh tính ưu việt của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và khi đọc, người biết chữ thành thục không cần đánh vần.
Họ nhận ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt, mũi, miệng, rồi tai…), mà nhận ra ngay toàn thể diện mạo của vật hay người đó.
Tâm lý học hiện đại từ đó mà có khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là Gestalt.
Nếu Gestalt càng gọn ghẽ thì việc nhận dạng càng nhanh chóng. Chính từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách 'Le nouveau monde sinisé' (tạm dịch “Thế giới Hán hóa mới”), Leon Vandermeersch đã chỉ ra rằng: sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, và Singapore phát triển nhanh chóng thành những “con rồng” của châu Á vì họ vẫn dùng chữ Hán.
So sánh khập khiễng
Theo tôi đã có sự so sánh khập khiễng giữa hệ thống chữ Latin với hệ thống chữ Hán.
Chữ Latin đã tồn tại từ rất lâu và ngày hôm nay hệ thống latin có ảnh hưởng không nhỏ đến từ vựng của ngôn ngữ Phương Tây.
Bằng chứng là rất nhiều từ vựng tiếng Anh giống tiếng Đức, tiếng Pháp. Vì thế, giới trẻ phương Tây có thể thành thạo nhiều thứ tiếng và trở nên năng động hơn, trở thành công dân toàn cầu một cách dễ dàng.
Còn với Việt Nam, gần như chúng ta đã thay đổi hoàn toàn một thệ thống chữ cái khác hẳn. Hệ thống chữ cái Việt Nam ngày nay chẳng còn liên hệ một chút nào đến các từ Hán - Nôm.
Vì thế người Việt học tiếng Anh, Pháp, Đức cũng khó (chữ Latin, nghĩa Hán - Việt), học tiếng Trung, Nhật, cũng khó (Nghĩa Hán Việt, chữ Hán tự).
Nói một cách khác, người Việt học tiếng Anh và tiếng Hán đều mất nhiều thời gian. Một sự bất lợi mà chính sau khi Chính Phủ Trần Trọng Kim ban hành phổ cập chữ quôc ngữ cũng không thể ngờ tới.
Về Thế giới Hán hóa ngày nay, có thể chia sẻ một chuyện. Tại một ngôi làng nhỏ thuộc bang Baden-Wuttemberg, nước Đức, một bộ phận sinh viên Đức học kinh tế chính hiệu có thể giao tiếp cơ bản tiếng Hán.
Chữ Hán có thể giúp đỡ việc học văn hóa và ngôn ngữ của một số đối tượng là trẻ em khuyết tật, theo tác giả.
Vào mỗi thứ năm hàng tuần, ngay chính tại night club Expressguthalle nổi tiếng nhất ngôi làng đó, sau khi chìm đắm vào những ly rượu Cocktail, các sinh viên Đức lại thi tài với nhau về khả năng nói nhiều thứ tiếng. Và một trong những ngôn ngữ không thể thiếu đó là tiếng Trung.
Tại các thành phố lớn như London, New York, Paris đều có một bộ phận không nhỏ người Hoa đang sinh sống và làm việc.
Còn đối với Việt Nam, các nước nói tiếng Trung như Đài Loan, Singapore, Trung Quốc và cả Malaysia đều là những đất nước có lượng đầu tư lớn vào Việt Nam. Một số lượng lớn du học sinh Việt hiện đang du học tại những đất nước này. Và quan trọng hơn cả, số lượng người nói tiếng Trung đã vượt qua số lượng người nói tiếng Anh trên toàn thế giới.
Sự 'giống nhau' Hán - Việt
Tiếng Hán đã gia nhập kho tàng ngôn ngữ Việt dưới tên gọi Hán - Việt. Nó chiếm khoảng 70% vốn từ tiếng Việt như ta thường thấy, đặc biệt là trong kinh tế và chính trị .
Đơn giản như từ: “chủ quyền” thì tiếng Hán là “主权”- đọc là “Zhǔquán”, còn tiếng Anh là sovereignty. Khả năng ghi nhớ từ vựng tiếng Hán (âm pinyin) sẽ nhanh hơn tiếng Anh.
Như một sự khởi đầu, theo tôi, dẫu biết thay đổi một sớm một chiều một hệ thống giáo dục là vô cùng khó, thế nhưng thay đổi step-by-step (từng bước một) là điều hoàn toàn có thể làm được. Phổ cập chữ Hán - Nôm cơ bản có thể khởi đầu từ những học sinh cấp hai.
Sự kết hợp giữa ngữ văn và đọc viết cơ bản chữ Hán Nôm nên đi song hành vào các tác phẩm thơ phiên âm đang giảng dạy. Những bài thi, bài kiểm tra Hán - Nôm học thực sự cần sự trú trọng và tính nghiêm túc trong giảng dạy.
Nếu truyện Kiều được dạy bằng Hán - Nôm thì chắc chắn sẽ đặc sắc hơn cái kiểu học thuộc lòng “bằng chữ Quốc ngữ” như bây giờ.
Các nhà làm chính sách nên coi chữ Hán Nôm như là một văn hóa từ ngàn đời nay do cha ông ta đúc kết lại để những thế hệ sau có cơ hội được quảng bá một loại chữ viết đặc sắc của Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Để thay cho lời kết, chúng tôi nghĩ rằng ngược dòng lịch sử cuối thế kẻ XIX, nhà duy tân tiên phong lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ khi chủ trương xây dựng chữ Quốc Ngữ, đã không dùng chữ Quốc ngữ do các nhà truyền đạo phương Tây sáng tạo.
Ông chủ trương lấy chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Hơn một thế kỷ trôi qua, có lẽ đề xuất của Nguyễn Trường Tộ vẫn còn mang tính thời đại.
(Ghi chú của tác giả: "Bài viết có dùng nguồn từ bài báo “Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam” của Nguyễn Đình Chú trong tạp chí Hán Nôm số 2 (69) năm 2005.")
Ghi chú: Tựa đề do Ce Phan đặt lại để phù hợp với nội dung của bài đăng trên blog này