Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục mầm non. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục mầm non. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

Triết lý giáo dục bình dân

 Hiểu triết lý giáo dục theo cách bình dân


“Giáo dục bình dân”  cũng giống như cách gọi “quán cơm bình dân”.  Nếu bạn muốn tìm kiếm một thứ gì đó đơn giản trong sự phức tạp, thứ căn bản trong sự nâng cao thì đây chính là nơi dành cho bạn. 

 Khi chơi Facebook mình nhận ra có rất nhiều xu hướng giáo dục mới cùng với rất nhiều phương pháp giảng dạy được du nhập vào Việt Nam. Đôi khi cách gọi đó làm cho người muốn tìm hiểu giáo dục càng thêm rối trí . Chuỗi các bài viết này không gì khác hơn là làm cho mọi thứ trở nên dễ hiểu hơn, gần gũi hơn. 

Để bắt đầu, mình nói tới 1 từ rất căn bản của việc DẠY và 2 từ của việc HỌC. Dạy chung qui lại là làm mọi thứ để dựng cho bằng được cái MÔI TRƯỜNG (environment) để việc học diễn ra thuận lợi. Còn học diễn ra từ VUI (interests) cho đến từ LIÊN TỤC (continuity). Như vậy là giáo viên bạn chỉ cần nhớ tới 3 từ đó thì có thể vận hành được một lớp học thành công. 

MÔI TRƯỜNG - Nếu các bạn để ý thì sẽ nhận ra giáo dục ở các nước tiên tiến ít chú ý tới việc dạy mà họ chỉ quan tâm tới môi trường giáo dục trong nhóm, trong lớp và trong trường. Học sinh tự “chiến” với chính họ và với các đối tác khác trong một nơi mà mọi thứ diễn ra có chủ đích của các nhà giáo dục (educator). 

VUI - không vui thì không học! Một nơi lý tưởng là nơi mà mọi học trò đều tìm thấy niềm vui cho riêng mình. Nếu giáo viên không tạo dựng bài học dựa trên sự nghiên cứu về sự hứng thú của người học thì học trò sẽ “nhấn nút STOP”  trong tâm trí ngay lập tức. Mọi thứ hay ho sẽ là vô nghĩa nếu nó không tạo ra sự lôi cuốn. 

LIÊN TỤC - có là chuỗi các hành động giúp ý tưởng ban đầu được diễn ra và kết nối. Thí dụ, học trò thích trồng cây nhưng không tưới nước và bón phân thì cây không lớn được. Một khi học trò thấy VUI với một thứ gì đó thì tiếp theo đó là những thứ mà học trò cần làm để tiếp tục phát triển nó lên. Lý tưởng nhất là tìm thấy điều gì đó hay ho trong quá trình tiếp diễn này. 

Hy vọng là cách làm đơn giản hoá những thuật ngữ về giáo dục sẽ giúp bạn yêu thích tìm hiểu về giáo dục nhiều hơn. 

Ce Phan 


Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2023

Hiểu về các trào lưu giáo dục trẻ em | Kỳ 1



Hiểu về các trào lưu giáo dục trẻ em

Hiện tại có rất nhiều trào lưu giáo dục trẻ em có thể khiến bạn bối rối bằng không biết bằng liệu phương pháp nào là phù hợp nhất đối với con cái của mình. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm của các trào lưu giáo dục ấy, chúng ta sẽ quay ngược trở lại một chút với lịch sử giáo dục. Chủ đề này dự kiến sẽ bao gồm nhiều bài và sẽ lần lượt điểm qua những cái tên nổi bật nhất với cách tiếp cận giáo dục của họ. 




Giáo dục nói chung bao gồm cả giáo dục ở trường học, gia đình và xã hội đều bắt nguồn từ những triết lý sống phổ quát. Ví dụ, ở nhiều nước Châu Á thì triết lý của Khổng Tử có ảnh hưởng sâu rộng đến hệ thống giáo dục trong thời kỳ phong kiến. Trong triết lý đó, giáo viên đóng một vài trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức đến học trò. Do vậy, giáo viên đã từng là trung tâm của mọi mô hình giáo dục trong thời kỳ đó. Cũng chịu ảnh hưởng bởi chế độ quân chủ lập hiến trong quá khứ, nhưng các nước Tây phương chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi thuyết duy vật biện chứng có nguồn gốc từ Socrates ( ông mất khoảng 400 năm trước Công Nguyên, khoảng vài mục năm sau Khổng Tử). Từ khởi điểm với vai trò đặc biệt quan trọng của người thầy, học trò được thúc đẩy bởi thuyết duy vật biện chứng đã có nhiều không gia để góp tiếng nói hơn trong các mô hình giáo dục ở các nước tiên tiến ở Châu Âu. Hai triết lý này tồn tại song song và tạo ra sự khác biệt rõ nét giữa giáo dục mang phong cách phương Đông và phương Tây.

Tuy nhiên, quá trình từ lý thuyết đến thực tiễn là một quá trình rất dài nên không phải đất nước nào cũng theo đuổi những mô hình giáo dục giống nhau cho dù họ sử dụng chung những triết lý đó. Quá trình áp dụng đó đi từ triết lý sống đến triết lý giáo dục và sau đó nữa mới đến các phương pháp giáo dục. Ví dụ, Nhật Bản là một đất nước phương Đông, đã từng chịu ảnh hưởng bởi triết lý Khổng Tử một cách sâu sắc nhưng kể từ thời Minh Trị đã thay đổi toàn diện và có những đường lối giáo dục mà sau này biểu hiện nhiều nét tương đồng với giáo dục của phương Tây. Mặc dù vậy, chúng ta cũng khó lòng kết luận là các chương trình giáo dục dùng chung một phương pháp lại có thể tạo ra những “sản phẩm” giáo dục giống nhau do nhiều yếu tố mang tính địa phương. Hơn nữa, dường như tất cả mọi quá trình là liên quan tới con người thì không thể tạo ra những kết quả giống nhau.

Kể từ cuộc Cách mạng công nghiệp nặng diễn ra từ cuối thế kỉ 18, thế giới trải qua nhiều thay đổi sâu rộng ảnh hưởng tới tất cả các hệ thống giáo dục trên thế giới. Khi đó, những nước tư bản xem giáo dục là cách để tạo ra một lực lượng lao động có trình độ (kiến thức và kỹ năng) để tham gia vào chuỗi sản xuất công nghiệp. Trong thời gian này, khi mà hệ thống sản xuất đã tạo ra tiền đề quan trọng cho sự phát triển xã hội của những đất nước tư bản. Việc nắm bắt được các kiến thức (thông tin) về khoa học kỹ thuật đóng một vai trò quan trọng trong các trường học trong thời kỳ bấy giờ. Dĩ nhiên, những kiến thức và kỹ năng liên quan tới nghệ thuật, giải trí chưa được xem là những giá trị cốt lõi trong các chương trình đào tạo. Lúc này, thế giới chứng kiến sự phát triển vượt bật của các nước phương Tây với sự hiệu quả trong các chương trình đào tạo của họ. Ngôi sao sáng nhất tại Châu Á trong thời kỳ này chính là Nhật Bản. Sự phát triển khoa học kỹ thuật lúc này cũng đã thúc đẩy cho một chu kì mới đó là nghiên cứu khoa học. Các học giả đã biết tận dụng tối đa nền tảng của khoa học thực chứng để khám phá ra sự thật và quy luật của rất nhiều ngành nghề trong đó bao gồm cả giáo dục.

Cho tới thế kỉ 20 khi những nghiên cứu về bộ não con người đã được những thành công quan trọng thì những kết quả của nó đã ảnh hưởng lớn đến cách mà các nhà giáo dục quan niệm về “sự học”. Bom tấn trong thời kỳ này đó chính là nghiên cứu của tiến sĩ Roger Sperry tại Hoa Kỳ về chức năng của bán cầu não phải và não trái. Tầm ảnh hưởng của nó vẫn còn kéo dài đến ngày nay trong giáo dục hiện đại. Năm 1981, tiến sĩ Roger Sperry đã được vinh danh với giải thưởng Nobel cho nghiên cứu về chức năng của hai bán cầu não của ông. Khi thế giới vinh danh ông, điều đó cũng có nghĩa là nghiên cứu đó đã có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội. Điều đó đúng cả trong lĩnh vực giáo dục khi mà các chương trình giảng dạy về sau đều cố gắng phát triển dựa theo các miền phát triển của bộ não con người. Một cách chung nhất, các nhà giáo dục quan niệm rằng não trái của con người có thể thu thập và xử lý số liệu trong khi não phải có thể kích hoạt khả năng sáng tạo.

Từ cuối thế kỉ 20 cho tới thế kỉ 21, có rất nhiều nhà giáo dục nổi tiếng ra đời khi họ nhấn mạnh cách thức giáo dục dựa trên những đặc điểm của bộ não. Riêng trong giáo dục trẻ em thì những cái tên như Maria Montessori, Makoto Shichida, Glenn Doman đã trở nên ưa chuộng bởi vì họ chủ thuyết khai phá tiềm năng cho đứa trẻ dựa dựa trên các đặc điểm được phát hiện trước đó trong nghiên cứu về thần kinh. Những diễn ngôn giáo dục của họ lại càng có cơ hội được ủng hộ khi mà yếu tố “thông tin” không phải là điều quá khó để đạt được trong thời kỳ công nghệ số (liên đới tới khả năng ghi nhớ của não trái). Nhiều người tự nghiệm ra rằng, việc khai sáng để tạo ra sự khác biệt sẽ đến từ việc nhấn mạnh và phát triển chức năng của não phải. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực chứng về sự liên quan trong chức năng của bộ não tới các cách tiếp cận cho tới ngày nay vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục. Phần lớn những nghiên cứu kiểm nghiệm cách tiếp cận giáo dục dựa vào đặc điểm các bán cầu não vẫn chỉ dừng lại ở mức định tính (qualitative method).

Tại những đất nước phát triển, vẫn luôn tồn tại song song nhiều trào lưu giáo dục. Phần lớn các hệ thống giáo dục chính thống và được chuẩn hoá dựa trên những nghiên cứu mang tính định lượng (quantitative method) với các nghiên cứu đã được thực nghiệm trên số lượng lớn dữ liệu và được bổ trợ bởi những nghiên cứu có liên quan khác như xã hội học, thần kinh học, tâm lý học … Các hệ thống giáo dục khác (phần lớn là giáo dục tư nhân) có xu hướng lựa chọn những phương pháp tiếp cận mới hoặc có tính đột phá cao như các phương pháp của những nhà giáo dục vừa đề cập ở trên.

Kỳ tới, chúng ta sẽ điểm qua những trào lưu giáo dục trẻ em trên thế giới bao gồm cả giáo dục tiêu chuẩn của các quốc gia và những cách tiếp cận khác tồn tài song song với hệ thống ấy. 

Ce Phan
Giáo viên mầm non tại Nhật Bản

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022

Trở thành giáo viên mầm non chuyên nghiệp | 9 tình huống phổ biến


Để trở thành một giáo viên mầm non chuyên nghiệp điều bạn cần làm đó là hãy cải thiện bản thân mình qua những tình huống thực tế và xây dựng một thói quen ứng xử phù hợp với trẻ em và phụ huynh. Bên dưới là 9 tình huống phổ biến đầu tiên mà mình muốn giới thiệu tới các bạn. Hãy tự đặt mình trong những tình huống đó và nhớ lại rằng bạn có từng "CÓ" làm như vậy hay "KHÔNG". Nếu có, hãy học hỏi cách để làm tốt hơn trong lần tiếp theo. 




STT

Lịch trình

Những tình huống thường thấy 

Có/

Không

Cách cải thiện

1

Lúc đón vào trường

Bạn đã nói với một đứa trẻ không chịu rời mẹ chúng ở trường vào buổi sáng - "Thật xấu hổ khi luôn ôm chặt lấy mẹ của mình"


Có thể tốt hơn nếu nói, "Bạn trông rất hạnh phúc với mẹ" và hiểu cảm xúc của đứa trẻ, khi đó bạn có thể “thu phục” đứa trẻ sau đó có thể tự đi vào lớp.


2

Trong giờ học

Trong khi làm thủ công, bạn đã nói với một đứa trẻ đang vẽ “sai rồi, tôi đưa cho bạn một tờ giấy khác để bắt đầu lại nhé?” Rồi chỉ cần đưa tờ giấy đó cho chúng.


Thay vì chỉ ra rằng đứa trẻ đã làm sai điều gì đó hãy để chúng thử làm giúp chúng tự thể hiện mình.

3

Trong giờ học

Bạn đã đổ lỗi cho một đứa trẻ đã làm bẩn hoặc ướt mình


Điều này có thể khiến đứa trẻ cảm thấy bị tổn thương hoặc xấu hổ về bản thân. Tốt hơn là nên đưa trẻ đến một nơi nào đó có thể nhận biết được tình trạng của mình và cho trẻ biết rằng chúng sẽ cảm thấy dễ chịu hơn sau khi thay quần áo.

4

Trong giờ học

Bạn đã tức giận và la mắng một đứa trẻ đã đánh bạn bè của chúng


Hãy giúp đứa trẻ hiểu rằng loại hành động này là sai sử dụng với lời nói là rất quan trọng. Quan trọng hơn nữa, bạn phải nhận ra nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn với bạn là một phần của sự phát triển.


5

Trong giờ học

Bạn đã nói với một đứa trẻ rằng bạn đang bận nói chuyện và bạn sẽ nói chuyện với chúng sau


Nếu đó là điều bạn thực sự không thể trả lời hoặc giải quyết ngay lập tức, sau đó hãy nhớ nói chuyện trở lại với đứa trẻ và hỏi lại họ những gì họ muốn và nói với họ rằng bạn xin lỗi. Hãy khẳng định rằng đứa trẻ có thể luôn nói chuyện với bạn bất cứ khi nào có thể.

6

Trong giờ học

Bạn đã nói với một đứa trẻ đang di chuyển chậm chạp "Nhanh lên, nếu con không làm được thì hãy quay lại chỗ cũ" và so sánh chúng với những đứa trẻ khác.


Công việc của giáo viên là khuyến khích các em, động viên các em và để chúng học cách thúc đẩy bản thân. Hãy dùng những lời động viên với trẻ em.


7

Trong giờ ăn

Để tránh thức ăn lộn xộn và rơi vãi, thay vì cho trẻ ăn cả bữa trưa, bạn hãy để riêng từng đĩa một.


Trẻ em nên được lựa chọn cách chúng ăn và thứ tự các món chúng muốn ăn. Thay vì chỉ tập trung vào sự lộn sộn xảy ra trên bàn ăn của trẻ, điều quan trọng là đảm bảo trẻ thích bữa ăn.

8

Khi tiễn trẻ về

Bạn đã nói với một phụ huynh rằng con của họ đã đánh nhau và khiến một đứa trẻ khác khóc, trong khi các bậc cha mẹ khác có thể nghe thấy.


Điều này có thể làm tổn thương lòng tự trọng của trẻ và cũng khiến phụ huynh cảm thấy khó chịu. Bất cứ khi nào bạn có điều gì cần trao đổi với cha mẹ, hãy cân nhắc và tìm hiểu cảm xúc của họ. Mục đích cuối cùng là để giúp trẻ hiểu được đâu là đúng, đâu là sai.

9

Tình huống khác

Bất cứ khi nào rắc rối xảy ra giữa hai đứa trẻ, bạn sẽ không lắng nghe những gì chúng nói và chỉ ngay lập tức đưa ra phán đoán.


Luôn có lý do cho một điều gì đó xảy ra khi rắc rối phát sinh. Khi những tình huống này xảy ra, đó là cơ hội tốt để trẻ học hỏi. Vai trò của chúng ta không phải là chỉ đưa ra phán xét, mà còn hơn thế nữa là lắng nghe từ mỗi đứa trẻ và giúp cả hai bên hiểu nhau hơn.


Ce Phan

Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?



Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?


Tôi muốn hỏi điều này tới hầu hết mọi giáo viên mầm non mà tôi trò chuyện, kể cả các đồng nghiệp ở Nhật Bản và những đồng nghiệp mới của tôi ở Việt Nam. Tôi nhớ lại câu hỏi này ngay trong tuần đầu tiên khi tôi bắt đầu chương trình Thạc sĩ của tôi. Đó là thời điểm tôi học môn học Lịch sử giáo dục với bài học đầu tiên về mục đích của giáo dục. Giáo sư đã hỏi "Điều gì đã khiến bạn muốn trở thành giáo viên?". Có lẽ tới bây giờ, câu trả lời của tôi vẫn không thay đổi nhiều so với lúc đó.




Tôi muốn nói rằng: Nghề giáo là một nghề có thể mang lại cho tôi một cuộc sống ổn định tại Nhật Bản cùng với những phúc lợi xã hội khác. Nó cũng đã giúp tôi có cơ hội cùng học với chính học trò của tôi. Cho dù cả hai điều quan trọng trên được thoả mãn, nhưng chắc chắn là tôi đã không chọn cái nghề này nếu tôi không có tình yêu đặc biệt với giảng dạy. Tôi yêu thích truyền đạt những kiến thức hay tới học trò bằng nhiều cách khác nhau và tôi cũng muốn nhìn thấy sự trưởng thành từng ngày của những đứa trẻ.


Có lẽ hầu hết mọi đồng nghiệp yêu nghề mà tôi đã trò chuyện đều có những suy nghĩ tương tự. Điều thú vị nhất mà tôi nhận ra đó là họ yêu trẻ nhiều hơn tôi! Có lẽ đó là cách tự nhiên mà bất kì giáo viên mầm non nào được hỏi câu hỏi đó. Hoặc cũng có thể tôi là giáo viên nam hiếm hoi trong lĩnh vực này và tôi nghiêng phần nhiều vào lý trí hơn là cảm xúc!? Nhưng cho dù như thế nào đi nữa, lý do mà bạn lựa chọn để trở thành giáo viên sẽ trở thành nguồn động lực quan trọng để bạn phát triển trong lĩnh vực này. 


Tôi tin rằng việc tự hỏi bản thân mình về lý do khiến mình làm điều gì đó cũng chính là kim chỉ nam để giáo viên nhận ra đó là lẽ tự nhiên liên quan tới động lực của trẻ em. Tuy ở giai đoạn đầu đời và chưa sử dụng ngôn ngữ linh hoạt để thể hiện mong muốn cá nhân, nhưng mọi trẻ em đều được thôi thúc bởi những động lực riêng. Điều này còn được hiểu là mối quan tâm hay những đặc điểm riêng trong cách phản ứng và tương tác của trẻ. Khi nói tới đây, chúng ta thử ngẫm lại: Liệu trẻ em có lựa chọn việc đến trường mầm non hay không?. Câu trả lời chắc chắn là không! Vì thế để một đứa trẻ chuyển biến từ một điểm khởi đầu bị động thành một đứa trẻ chủ động và yêu thích những gì mình làm ở trường không phải là một điều dễ dàng.


Tôi nghĩ thách thức trên không chỉ là trở ngại ban đầu khi trẻ mới nhập học mà cũng là rào cản trong việc phát triển của trẻ em trong suốt quãng thời gian ở trường mầm non. Nếu giáo viên biết tập trung tìm ra nhiều phương cách khác nhau để để trẻ em cũng tìm được động lực thôi thúc cho riêng mình thì giáo viên đó cũng đã hoàn thành được một nhiệm vụ lớn lao trong nghề giáo của mình.


Mặc dù đã điều lần được hỏi và tự hỏi về “Điều gì khiến bạn muốn trở thành giáo viên mầm non?”. Tôi vẫn luôn muốn nhắc lại để nhắc nhở bản thân mình về những gì mà tôi đang hướng đến. Đó cũng là một phần trách nhiệm của tôi với công việc giảng dạy mà tôi đang làm hằng ngày. Còn bạn thì sao? Bạn đã có câu trả lời cho riêng mình chưa?


Ce Phan