Ở Việt Nam, bước chuyển giữa mẫu giáo và tiểu học tạo ra sự khác biệt lớn do vậy mà cha mẹ Việt quan tâm tới năm học đầu tiên trong trường tiểu học rất nhiều. Ở Nhật Bản, sự chuyển tiếp này ngày càng khó nhận ra khi mà chương trình năm cuối ở mẫu giáo và lớp 1 không khác nhau quá nhiều.
Tuy không phân biệt thành từng môn học ở các trường mầm non tại Nhật Bản, nhưng chương trình đào tạo đều xoay quanh những yêu cầu chính như sau: sức khoẻ thể chất; tương tác xã hội (sức khoẻ tinh thần); hiểu biết thế giới; yêu thích thiên nhiên, khoa học và nghệ thuật. Những giá trị đó phải được lồng ghép trong từng hoạt động trong trường học và luôn được đánh giá cũng như giám sát bởi cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương.
Khi trẻ em lên 6 tuổi tính đến tháng 4 hàng năm thì được nhập học vào lớp 1 trong chương trình tiểu học kéo dài 6 năm. Giai đoạn này các em sẽ chính thức được học thành từng tiết học 45 phút (giống như ở Việt Nam) nhưng các môn học thì cũng có cấu trúc giống như trong giai đoạn mẫu giáo nên học trò không cảm thấy khó khăn từ sự khác biệt hoặc quá mới mẻ.
(Hình ảnh minh hoạ từ CBSNews)
Học ngôn ngữ mẹ đẻ không phải là mối quan tâm lớn trong lớp 1 ở Nhật Bản
Hiện tại, việc học tiếng Việt ở lớp 1 thu hút sự chú ý từ nhiều người ở các vai trò khác nhau tại Việt Nam. Nhưng ở Nhật, thì tiếng Nhật không phải là mối quan tâm chính của phụ huynh khi con họ vào lớp 1 và cũng không phải là chủ đề nóng trên các mặt báo.
Thực ra, việc học tiếng Nhật đã diễn ra rất nhẹ nhàng trong nhiều năm qua ở Nhật kể từ khi có cải cách giáo dục từ thời Minh Trị. Con nít được tiếp cận với sách từ rất sớm, có thể nói là ngay khi lọt lòng mẹ đã được người lớn đọc sách cho nghe. Chính vì vậy, trẻ em Nhật rất gần gũi với sách và chữ nghĩa.
Không quá ngạc nhiên nếu bạn nghe nói chuyện trẻ em 3 tuổi ở Nhật có thể đọc được những ký tự cơ bản trong bảng chữ cái Hiragana trong tiếng Nhật. Lớn hơn một chút nữa thì các em đã có thể nhận ra mặt chữ được in lớn trong sách dạng tranh ảnh mà người Nhật gọi là “ehon”.
Việc dạy chữ cái không phải là yêu cầu bắt buộc trước 6 tuổi, nhưng hầu như các em đều nắm bắt được chữ nghĩa từ rất sớm thông qua các hoạt động ở trường mầm non hoặc được hướng dẫn thêm ở nhà. Chương trình dạy chữ sớm này được biết là “kumon” (một phương pháp giáo dục giúp các em biết đọc, biết viết và làm toán trong giai đoạn mầm non).
Tuy nhiên, nếu các em không thể viết được chữ cái khi vào lớp 1 cũng không đáng lo vì các em sẽ được học lại từ đầu khi bắt đầu tiểu học. Chương trình tiểu học ở Nhật là chương trình dạng toàn thời gian, bao gồm cả buổi sáng và buổi chiều (giống kiểu chương trình học bán trú ở Việt Nam). Thường thì buổi sáng các em học 4 tiết, buổi chiều học 2 tiết và thời gian còn lại là thời gian tự học. Do có rất nhiều thời gian như thế nên các em cứ từ từ mà học. Thêm nữa là cấp học tiểu học không có đánh giá xếp hạng, chỉ có thi học kì (từ lớp 3 trở đi) nên em không phải lo chuyện thi cử từ sớm cũng như các áp lực không đáng có.
Mặc dù tiếng Nhật được xem là một trong những ngôn ngữ khó học nhất thế giới nhưng chính trương trình học được tính toán hợp lý và phân bổ ra nhiều lớp học nên các em có thể học từ từ mà không hề thấy quá khó khăn khi tiếp cận.
Con cái tiềm được niềm vui ở trường hay không là điều mà phụ huynh quan tâm nhất trong lớp 1
Khi cho con vào lớp 1 thì phụ huynh quan tâm tới việc con mình có cảm thấy vui không khi đến trường. Họ cũng xem mối quan hệ bạn bè là điều quan trọng nhất trong lớp học này.
Cũng chính gì nắm bắt được tâm lý này, chính quyền địa phương rất tinh ý trong việc xếp trường và xếp lớp cho các em. Họ cố gắng đảm bảo mỗi em đều có ít nhất một người bạn từng chung trường ở cấp học mầm non.
Mỗi ngày khi con đi học về, cha mẹ sẽ hỏi “Con đi học hôm nay có vui không?” Thay vì hỏi “Hôm nay con học được gì?”. Dĩ nhiên là ai cũng qua tâm tới kiến thức và kỹ năng con mình học được ở trường, nhưng trong năm đầu tiên ở tiểu học thì cha mẹ người Nhật mong con yêu trường, yêu lớp hơn là mong muốn nhìn thấy một kết quả học lực của con.
Khi tôi hỏi bạn bè người Nhật để xem họ có dạy chữ cho con họ ở nhà không thì họ khẳng định là có nhưng chỉ là mức hỗ trợ. Họ sẽ mở sách bài tập luyện chữ mà con chưa làm xong trong thời gian tự học ở trường ra xem và hỏi xem con họ gặp khó khăn gì. Họ sẽ động viên để chúng hoàn thành xong bài tập và đôi lúc chỉ thêm những vấn đề khác.
Phải nói thêm là sách tự học (hay sách bài tập) của học trò ở Nhật rất dễ học vì các kiến thức thường được mô phỏng thành hình và được chuyển tiếp nhẹ nhàng giữa các bài học và không hề có đánh đố. Các em hầu như tự biết làm khi mở ra bài học kế tiếp.
Như vậy, khác với Việt Nam khi cha mẹ Việt chú ý nhiều tới việc học chữ của con trong lớp 1, cha mẹ người Nhật chỉ quan tâm con hoà nhập như thế nào trong môi trường mới. Nếu các em cảm thấy vui khi đến trường mỗi ngày thì họ cũng cảm thấy rất nhẹ nhõm.
Quyết định sửa đổi thông tư của Bộ Giáo dục Việt Nam về việc sử dụng điện thoại trên trường học đã tạo ra những ý kiến trái chiều nhau. Đây cũng là một chủ đề gây nhiều tranh cãi ở nhiều nền giáo dục khác nhau trong sự cân bằng giữa lợi ích của việc sử dụng điện thoại trên trường và những tác hại của nó. Riêng ở Nhật Bản, học sinh chỉ được sử dụng điện thoại trong những trường hợp rất hạn chế trong trường học.
Cũng tương tự như ở Việt Nam, số lượng học sinh Nhật Bản sở hữu điện thoại ngày càng tăng cao. Theo số liệu được thống kê trong năm 2019, tỷ học sinh Nhật Bản có sở hữu điện thoại là 3%; 14%; 18%; 63% cho các đối tượng lần lượt là lớp 1-2; 3-4; 5-6 và trung học (1). Tỷ lệ này cũng phản ánh mức độ chấp nhận sử dụng điện thoại của phụ huynh dành cho con cái cũng tăng dần khi các em lớn lên.
Mặc dù việc học trò có điện thoại riêng là lựa chọn mang tính cá nhân nhưng trường học ở Nhật rất dè dặt trong việc cho phép học sinh sử dụng điện thoại bên trong trường học. Theo một quyết định từ Bộ Giáo dục Nhật Bản vào năm 2019 thì trung học cơ sở trở xuống bị cấm mang điện thoại lên trường học (2). Gần đây thì họ đã cân nhắc lại quyết định trên sau những tai nạn đáng tiếc xảy ra cho học trò vì thiên tai khi các em đi học.
Hiện tại, các chính quyền địa phương ở Nhật Bản sẽ có quyết định riêng của họ rằng học sinh có được phép mang điện thoại lên trường hay không. Những trường học cho phép các em mang theo điện thoại đều có những hướng dẫn sử dụng rất cụ thể để tránh việc lạm dụng điện thoại trên trường học.
Theo đó, điện thoại các em phải để ở chế độ khoá trong suốt giờ học. Các em được phép mở điện thoại trong những giờ giải lao nhất định hoặc lúc đang di chuyển trên đường.
Đối với học sinh trung học thì các em được đồng ý mang điện thoại lên trường nhiều hơn. Sẽ có nhiều khoảng thời gian hơn để các em sử dụng điện thoại cho mục đích học tập. Tuy nhiên, gần như rất hiếm có trường hợp các em được phép sử dụng điện thoại trong lớp học.
Mặc dù điện thoại ngày càng được mọi người sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau, trong đó có học tập. Nó vẫn còn được xem là công cụ cần được hạn chế trong trường học ở Nhật bởi vì những tác hại mà nó mang lại. Không những thế, phụ huynh ở Nhật cũng rất dè chừng trong việc cho phép con cái của họ sử dụng điện thoại hay các phương tiện điện tử ở nhà. Những vấn nạn về nghiện game, nghiện internet và những thông tin độc hại chính là những lo ngại chính trong việc hạn chế các thiết bị công nghệ cao tới học sinh.
Nguồn tham khảo
(1) Số liệu về tỷ lệ sở hữu điện thoại theo nhóm tuổi của học sinh ở Nhật được thống kê năm 2019
Dạo gần đây Starbucks đã giới thiệu ống hút giấy tới khách hàng của họ. Mình cũng là một khách hàng khá thường xuyên của thương hiệu này kể cả ở Việt Nam cũng như ở Nhật. Mình uống nhiều đến nỗi có cả thẻ thành viên gold của nó.
Khách sau khi order nước uống sẽ được hỏi rằng liệu bạn có thể chọn ống hút giấy hay không? Nếu không thì vẫn có thể sử dụng ống hút nhựa như cũ.
Ống hút giấy thì dĩ nhiên là sẽ thấm nước nhưng có lẽ nó không ảnh hưởng gì đến chất lượng nước uống. Nó cũng được làm từ loại giấy cứng nên không dễ bị bẫy trong vài tiếng sử dụng.
Cách đây ít lâu mình nghe một câu chuyện khởi nghiệp trên đài NHK của Nhật về một nhóm các bạn trẻ Việt Nam và Nhật Bản nghiên cứu sử dụng ống hút cỏ. Ở Việt Nam có một loại cỏ mà thân của nó hoàn toàn rỗng và vỏ khá cứng vì thế người ta có thể dùng nó để thay thế cho ống hút nhựa thông thường.
Nhóm khởi nghiệp này đã bắt đầu giới thiệu sản phẩm này tới các nhà hàng ở Nhật. Sản phẩm này được lựa chọn mặc dù có giá cao hơn rất nhiều so với ống nhựa là bởi vì nó tạo được thiện cảm cho khách hàng. Hình ảnh của nhà hàng sẽ được cải thiện hơn khi họ có xu hướng sử dụng các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường.
Ý tưởng về những chiếc ống hút này cũng thú vị phải không? Mình sẽ chia sẻ thêm những gì mình nhìn thấy trong đời sống thường ngày ở nước Nhật để chia sẻ tới các bạn.
Thôi mình tiếp tục uống cafe đây! Chúc các bạn một tuần mới vui vẻ.
(Ống hút giấy trong một quán cafe của Starbucks, Tsukuba, Nhật Bản)
Mình vừa chạy dọc một con đường và thấy có nhiều điểm trên con đường ngày có người ngồi đếm xe.
Nghề đếm xe cũng từng được một mô phỏng trong một tập trong phim hoạt hình ở nước Nhật khi mà các cô gái muốn kiếm tiền bằng việc ngồi đếm xe.
(Hình ảnh được sưu tầm từ internet)
Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng không hề đơn giản các bạn nhé! Cụ thể như thế nào?
Người đếm xe không chỉ đếm số lượng xe chạy qua một đoạ đường mà còn phân loại các dòng xe và số người ngồi trên xe và nhiều tiêu chí khác tuỳ theo yêu cầu của nhà quy hoạch đường phố.
Số liệu mà những người đếm xe này sẽ là dữ kiện thật để các nhà quy hoạch đô thị dựa vào đó để có những điều chỉnh phù hợp về số làn xe, độ rộng làn xe và các công trình phụ trợ khác.
Thành phố Tsukuba nơi mình đang sinh sống ở Nhật có một đặc điểm đô thị khá thú vị mà mình cảm nhận được. Dường như các điểm thu hút giao thông bị "vỡ trận" khi có sự thiên lệch giữa những gì kỳ vọng trong bản thiết kế và thực tế diễn ra.
Trung tâm thành phố với những công trình công cộng và thương mại chính lại "hẻo" hơn khu vực suburban (ngoại vi) do sự xuất hiện của các siêu thị lớn như Costco, Trial, Taiyo ...
Sự tập trung trung dân cư một cách nhanh chóng xoay quanh các khu vực mới đã tạo nên một sức nóng vô cùng lớn. Những luồng giao thông từ các thành phố lân cận đổ về để mua sắm ở các siêu thị này cũng khá nhộn nhịp. Quán xá, cửa hàng, trường học cũng theo đó mà mọc lên rất nhanh.
Hệ quả là những tuyến đường chỉ với 2 làn xe đã nhanh chóng tắt nghẽn. Nó bị nghẽn không chỉ trong giờ cao điểm mà liên tục diễn ra cảnh đông đúc trong phần lớn thời gian trong ngày.
Khi mới tới sinh sống ở đây, mình đã phần nào nhìn ra sự thiên lệch này. Sức hút của khu vực trung tâm là không đủ lớn để là một trung tâm thực thụ mặc dù nó chính là nơi có hệ thống hạ tầng tốt nhất.
Sự chuyển dịch hôm nay bằng việc đếm xe để tiến tới bước tiếp theo là điểu chỉnh lại quy hoạch của thành phố là điều cần thiết. Các tuyến đường tại các điểm thu hút mới cần được mở rộng hoặc bổ sung hợp lý để tạo ra các luồng giao thông hài hoà hơn.
Có lẽ mình nên xin một chân đếm xe để góp phần làm cho thành phố này ngày càng trở nên tiện nghi hơn!
Ce Phan
-------
Đếm xe để biết lưu lượng xe trên một tuyến đường. Nói tới đây mới nhớ loáng thoáng tới một bài giảng của thầy Huỳnh Đình Lượng (môn địa lý lớp 12) rằng khi đếm xe qua một khúc đường sẽ biết chi phí người ta dành ra khi đi qua một km đường là bao nhiêu và khi có ổ gà ở đó thì sẽ thiệt hại bao nhiêu nếu như không được sửa.
Bài học này đã lưu lại trong ký ức của tôi mặc dù đã 15 năm trôi qua kể từ ngày ấy.
Phương thức giáo dục “một chương trình, nhiều sách giáo khoa” vừa mới được hiện thực bằng việc giới thiệu một bộ sách giáo khoa mới cho năm học mới 2020-2021 ở Việt Nam. Trong đó, mọi người dành nhiều sự qua tâm cho bộ sách giáo khoa lớp 1 với trên 20 cuốn sách với giá bán khoảng 800.000 Đồng.
Đối với tôi, là một giáo viên tại Nhật Bản, tôi cho rằng chuyển dịch trên của Bộ Giáo dục Việt Nam là cần thiết mặc dù tương đối trễ so với các nền giáo dục khác. Bài này tôi sẽ chia sẻ những thông tin mà tôi biết về sách giáo khoa ở Nhật Bản để bạn đọc có thể tham khảo.
Sách giáo khoa ở Nhật Bản được tư nhân xuất bản
Trước Thế Chiến II, Nhật Bản áp dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất cho cả nước do Bộ Giáo Dục xuất bản. Tuy nhiên, đến năm 1947, Luật Giáo Dục ở Nhật có những quy định mới về xuất bản sách giáo khoa và cơ chế đó được sử dụng cho đến hôm nay.
Theo đó , Bộ Giáo dục của Nhật Bản chỉ quản lý và giám sát tiêu chuẩn của chương trình giáo dục của các cấp học mà không tự sản xuất sách giáo khoa. Dựa trên các yêu cầu đó, các nhà xuất bản tư nhân sẽ xây dựng nên nhóm nghiên cứu và viết sách giáo khoa. Điều đó có nghĩa là có rất nhiều bộ sách giáo khoa tồn tại xung quanh khung chương trình giảng dạy đã được Bộ Giáo dục quy định.
Chính quyền địa phương sẽ lựa chọn một bộ sách giáo khoa để áp dụng cho hệ thống trường công lập hoặc bán công mà họ quản lý trực tiếp. Các trường tư nhân thì được quyền lựa chọn bất kỳ bộ sách giáo khoa nào đã được Bộ Giáo dục phê duyệt.
Thường thì các bộ sách giáo khoa có giá chênh lệch không quá nhiều và có giá khá rẻ bởi vì giá sách được kiểm soát bởi Bộ giáo dục. Số lượng cuốn sách và số lượng trang cũng được quy định rõ nên nếu thoạt nhìn thì các bộ sách giáo khoa sẽ tương đối giống nhau ở vẻ bề ngoài.
Sách giáo khoa được cấp phát miễn phí ở cấp học phổ thông ở Nhật Bản
Khác với Việt Nam, học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 trong trường công lập Nhật Bản được nhận sách mới miễn phí hoàn toàn. Đó là quyền lợi mà tất cả học sinh ở Nhật đều được hưởng bao gồm luôn cả học sinh là con của người ngoại quốc.
Các trường tư nhân hoặc bán công thì có thể học phí đã bao gồm sách giáo khoa hoặc học sinh sẽ tự mua riêng sách giáo khoa.
Chính vì tất cả học sinh đều sở hữu sách cho riêng mình nên các em tự do hoàn toàn trong việc sử dụng cuốn sách. Do vậy, việc ghi chú trên cuốn sách giáo khoa là điều mà các em được khuyến khích ở Nhật Bản. Có rất nhiều khoảng không gian để trống để học sinh có thể viết trực tiếp vào đó.
Về lý thuyết, một bộ sách giáo khoa ở Nhật Bản chỉ được sử dụng một lần mỗi năm vì thường có những cập nhật mới trong cuốn sách giáo khoa của năm kế tiếp. Do vậy, bộ sách giáo khoa cũ chỉ còn mang tính tham khảo chứ khó lòng được sử dụng chính thức cho các lớp sau.
Học sinh Nhật học từ rất nhiều sách bên cạnh sách giáo khoa
So với hơn 20 cuốn sách dành cho lớp một ở Việt Nam, bộ sách giáo khoa dành cho mỗi lớp trong cấp tiểu học có ít hơn về số lượng cuốn sách (có khoảng từ 10-15 cuốn). Tuy nhiên, học sinh ở Nhật xem sách giáo khoa là một phần trong danh mục sách mà các em sử dụng trong quá trình học. Các em đọc sách rất nhiều bởi vì chương trình học của các em rất mở.
Thầy cô giáo ở Nhật cũng đặt ra rất nhiều vấn đề trên lớp bên ngoài sách giáo khoa nên việc đọc sách bên ngoài là rất cần thiết. Thư viện trường sẽ cho các em mượn bất kỳ cuốn sách tham khảo nào mà các em cần.
Người Nhật rất nổi tiếng về khả năng đọc sách và chắc chắn thói quen này đã được hình thành từ rất sớm. Có rất nhiều thống kê về số lượng sách mà học sinh Nhật đọc mỗi tháng. Thường thì một học sinh tiểu học sẽ đọc ít nhất một cuốn sách mới trong một tháng. Con số này sẽ tăng dần lên khi các em lớn lên.
Nhìn chung, học sinh ở Nhật may mắn hơn học sinh ở Việt Nam khi được nhà nước hỗ trợ sách giáo khoa trong nhiều năm học. Các em cũng thuận lợi hơn khi được tiếp xúc với một kho tàng sách đồ sộ và hoàn toàn miễn phí trong thư viện trường học. Đặc biệt nhất đó là tinh thần khuyến khích đọc thêm sách đã thúc đẩy các em duy trì thói quen này trong suốt hành trình của cuộc đời. Đó là điều mà rất lâu nữa học sinh Việt Nam mới xây dựng được.
Người Việt ta có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” để nói về tầm quan trọng của việc phòng tránh và chuẩn bị trước cho những điều tồi tệ có thể xảy ra. Người Nhật cũng có tâm niệm tương tự bởi vì đất nước của họ từng chứng kiến rất nhiều thảm hoạ trong quá khứ. Một cách hiện thực hơn, họ đưa những thử thách đó thành các bài học nhỏ để học trò có thể luyện tập ngay trong trường mẫu giáo.
(Ảnh minh hoạ/ bản quyền thuộc về báo Japan Today)
Bản thân tôi không ngạc nhiên khi UNICEF liệt kê trẻ em Nhật chịu nhiều áp lực trong học đường hơn so với các nước tiên tiến khác. Đó là chủ đề lớn mà trong ngành giáo dục của họ đã chú tâm đến trong những năm gần đây. Những thống kê của từ việc khám sức khoẻ tinh thần của các em trong trường học cho thấy một thực tế đáng lo ngại. Tuy nhiên, nó không tệ như người ta tưởng.
Trẻ em Nhật mang theo một hành trang với rất nhiều kỉ năng và kiến thức để vào đời.
Trong khi phần đông trẻ em mẫu giáo ở các nước khác đến trường chỉ để vui chơi và tận hưởng một “hành trình tuổi thơ” đầy thơ mộng thì các bé ở Nhật đã học cách để sinh tồn trong những tình huống nguy hiểm. Không khó để bắt gặp những cuộc diễn tập chống hoả hoạn, động đất, ngập lụt diễn ra ở các trường học ở Nhật.
Chỉ cần một tiếng tuýt còi bất ngờ (không bao giờ báo trước) thì tất cả các em sẽ phải nhanh chóng phản ứng theo chỉ dẫn của thầy cô. Trẻ sơ sinh thì được thầy cô bế trên tay, điệu trên người; trẻ em từ 1 đến 2 tuổi thì được cho vào xe đẩy cút kít; trẻ từ 3 tuổi trở lên phải tự chạy theo hàng. Tôi trải nghiệm ít nhất một lần mỗi tháng như thế trong rất nhiều tình huống được đặt ra khác nhau. Mỗi lần như thế đều rút ra một điều gì đó cần học hỏi và rút kinh nghiệm cho lần tiếp theo.
Nhiều lần trong số đó, các em đã phải nhanh chóng học cách thoát nạn khi đang trong lúc mải chơi, đang trong giờ ngủ trưa hay thậm chí đang ở trong toilet. Mục tiêu tối quan trọng của trường học là không được để xót bất kỳ một trường hợp nào trong điều kiện khẩn cấp.
Mới đây, chúng tôi còn được huấn luyện cách lánh nạn khi có thiên tai nhưng vẫn thực hiện giãn cách xã hội trong mùa dịch Covid-19. Một kế hoạch tỉ mỉ được gởi xuống trường học và ngay lập tức được chỉ dẫn để triển khai thực tập.
Khi các em học sinh lớn lên, ngoài việc duy trì đều đặn những bài thực hành như thế, các em được rèn luyền rất nhiều kỹ năng khác. Học sinh ở Nhật rất giỏi các môn thể thao và khả năng nghệ thuật.
Dĩ nhiên, cuộc đua trong hành trình bỗi dường kiến thức thì lúc nào cũng khắc nghiệt. Áp lực để kế thừa một lượng kiến thức đồ sộ mà thế hệ trước của nước Nhật để lại cùng với việc cạnh tranh với những trào lưu bên ngoài đã làm cho nhiều học sinh đuối sức. Đã có nhiều học sinh phổ thông ở Nhật bỏ học vì cảm thấy việc học quá áp lực. Điều này cũng được phản ánh phần nào trong thống kê của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
Người Nhật rất chấp nhận thực tế và học hỏi để vươn lên
Những thống kê về những khó khăn mà các em học sinh ở Nhật đang phải chịu đựng có được những con số rất xác thực là nhờ sự trung thực của họ. So với những đánh giá tương tự ở Việt Nam, có lẽ người ta tin vào cách làm của người Nhật hơn.
Lấy bản thân tôi làm ví dụ, trong suốt 2 năm mẫu giáo, 12 năm học phổ thông và các chương trình giáo dục đại học, tôi chưa bao giờ được các bác sĩ về thần kinh đánh giá về sức khoẻ tinh thần. Thậm chí gần như không nhớ một kỉ niệm nào về việc khám sức khoẻ thể chất. Tuy nhiên, người Nhật chi tiền cho việc đánh giá sức khoẻ thể chất và tinh thần rất nghiêm túc.
Chưa kể việc cha mẹ tự đưa con đi khám rồi điền vào các mẫu sức khoẻ do trường cung cấp, trẻ em ở Nhật được khám sức khoẻ định kỳ ngay trong trường học. Rất nhiều bác sĩ thuộc các chuyên khoa khác nhau đến khám cho các em. Dĩ nhiên, bác sĩ về thần kinh cũng đến khám hàng năm. Cũng vì thế mà nhiều em đang trải qua những khó khăn được phát hiện sớm và được tư vấn để vượt qua những điều đó.
Cũng tương tự như việc xét nghiệm Covid-19, khi có càng nhiều việc giám sát và đánh giá trong trường học thì “vấn đề” của các em càng lộ rõ hơn. Tôi thử gửi kết quả của UNICEF cho những người Nhật đang có con đi học thì không ai bất ngờ cả. Họ đều đồng ý với sự thật đó.
Người Nhật rất ham học hỏi và vì thế đất nước của họ mới được như ngày hôm nay. Họ từng rất nhiều lần đứng lên từ đau thương và mất mát do đó việc chuẩn bị dành cho các em học sinh rất trường kỳ.
Khi tôi hỏi về những trải nghiệm trên, một người bạn của tôi nói “có thể trẻ em ở những nơi khác được dạy để hưởng hạnh phúc trước, các em học sinh ở Nhật phải luôn sẵn sàng trước những rủi ro nên hạnh phúc sẽ đến muộn hơn”.
Người Nhật vừa mới nghe một lời xin lỗi từ thủ tướng Shinzo Abe khi ông không thể phục vụ với vai trò lãnh đạo đất nước được nữa vì lý do sức khoẻ. Những người quan sát trên thế giới lại một lần nữa thấy được trách nhiệm và sự lịch thiệp của người Nhật qua sự kiện này.
(Hình minh hoạ/ Nguồn từ Internet)
Câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây lại là một điều rất nhỏ bé về bài học “xin lỗi” mà các em học sinh học được trong trường học ở Nhật.
Trong những ngày hè, trường tôi hay cho các em học sinh đi bộ bên ngoài để vừa có thể vận động vừa học được những điều thực tế từ cuộc sống xung quanh.
Trước khi đi các em luôn được nghe lại những chỉ dẫn khi đi bộ ngoài đường để đảm bảo an toàn và tránh làm phiền người khác. Tuy nhiên, hôm đó có một em đã vô tình làm hỏng một chú cho sứ nhỏ vì khi đi bộ lỡ quơ tay vào nó.
Đó là một chú chó sứ trông có vẻ khá cũ được đặt trên một chậu nhỏ hơi lộ một tý ra ngoài đường đi bộ. Tất cả đã phải dừng lại để nghe về sự cố này và cô giáo chịu trách nhiệm chính cho buổi đi bộ đã cố gắng gõ cửa chủ nhà để xin lỗi.
Sau một hồi không thấy ai mở cửa, cô cố gắng bắt chuyện với một bác lớn tuổi đứng gần đó thì biết được rằng chủ nhà vừa mới đi bộ qua một cửa hàng gần đó. Chúng tôi cố gắng cho các em đứng dưới một bóng mát và bảo các em hãy đợi kiên nhẫn một chút.
Không quá lâu sau đó chúng tôi cũng được gặp chủ nhà để nói lời xin lỗi. Chủ nhà là một bà lão khoảng ngoài 80 khi thấy mọi người đợi mình thì lập tức nói “sumimasen” (xin lỗi) như một cách xã giao lịch thiệp. Tôi thấy cô giáo tường thuật lại sự việc và cô ấy cứ liên tục cuối người xin lỗi sau mỗi câu nói. Còn bà lão thì liên tục nói “Daijoubu, sumimasen” (không sao, xin lỗi nhé!). Bà ấy cũng nói xin lỗi vì không may xảy ra chuyện trên.
Các em được giải thích thêm một lần nữa về sự cố trên và cùng nhau cúi đầu xin lỗi bà lão thêm lần nữa trước khi rời đi.
Còn thầy cô thì cũng xếp hàng xin lỗi và xin bà lão cho mang chú chó xứ bị gãy về để tìm cách dán keo lại. Bà ấy cứ bảo không sao nhưng thầy cô thì ráng nài nỉ nên cuối cùng cũng mang được nó về để sửa.
Nhưng chuyện không có thế! Khi về đến trường và tường thuật lại câu chuyện cho quản lý thì thấy không khí có căng thẳng. Lúc đó tôi chỉ biết lắng nghe chứ cũng không biết nói làm sao bởi vì tôi nghĩ sự việc không có gì quá nghiêm trọng và mọi người đều đã nói lời xin lỗi.
Đã có một cuộc họp nhanh diễn ra sau đó để rút ra kinh nghiệm chung sau sự cố trên. Người quản lý trường cùng với cô giáo lúc sáng đã mang chú chó đã được dán keo cùng một món quà nho nhỏ tới gặp bà lão một lần nữa.
Câu chuyện này cứ quanh quẩn trong đầu tôi suốt mấy ngày. Sau khi tìm hiểu nhiều hơn về văn hoá xin lỗi của người Nhật thì tôi mới hiểu được rằng người Nhật luôn cố gắng để tránh làm phiền lòng nhau và luôn nỗ lực để làm mọi thứ diễn ra hài hòa nhất có thể.
Kể từ sau lần đó, danh sách những điều căn dặn các em trước khi bước ra đường được bổ sung thêm một điều lưu ý mới. Đó là những thứ trên đường mà các em có thể vô tình đụng phải và gây hỏng, hãy để tâm để không gặp những sự cố tương tự.
Có thể đâu đó chúng ta bắt gặp những câu chuyện ba mẹ thờ ơ với việc dành thời gian cho con cái và trông chúng rất đơn độc và tội nghiệp. Tuy nhiên, những trường hợp như vậy không liên quan tới việc giáo dục con cái tự lập và hoàn toàn không phải là hậu quả của xu hướng giáo dục này.
Thực ra có một làn ranh rất rõ giữa việc dạy cho con cái trở nên độc lập và việc cứ để mặc chúng lớn lên trải nghiệm “sự đời”. Đó chính là giáo dục!
Hình ảnh trẻ em đi bộ ở Nhật Bản - Nguồn: Jpninfor.com
Cách thức thực hành phương pháp giáo dục này trong mỗi điều kiện có thể khác nhau nhưng để dạy cho con trở nên tự chủ hơn tiêu tốn đòi hỏi thời gian của cha mẹ và hệ thống giáo dục nhiều hơn là bạn tưởng. Tuy cha mẹ có thể không làm thay hoặc chơi chung với con, nhưng họ luôn quan sát để có những chỉ dẫn hoặc giúp đỡ kịp thời và trường học cũng rất dày công chỉ dạy rất nhiều kỹ năng khác nhau trước khi các em tự lập. Nó khác hoàn toàn với việc bỏ mặt để cho con có ra sao thì ra.
Để nhìn rõ nét hơn về sự tương phản này, hãy nhìn vào xã hội Nhật Bản, nơi mà xu hướng giáo dục con cái trở nên độc lập luôn được đề cao. Cũng chính nơi đó, người ta có thể bắt gặp cảnh những đứa trẻ tự làm mọi thứ, tự chơi và đôi khi trông có vẻ cô đơn.
Trẻ em ở Nhật Bản khó dựa dẫm vào cha mẹ
Xét về mặt giáo dục thì giáo dục con cái trở nên độc lập có vẻ là một lựa chọn trong nhiều sự chọn, nhưng thực ra đó gần như là yêu câu bắt buộc trong một xã hội công nghiệp như ở Nhật Bản. Trẻ em ở đây gần như có ít cơ hội để dựa dẫm lâu vào sự bảo bọc của người lớn như anh chị, cha mẹ hay ông bà bởi vì mỗi người đều có một công việc và hoạt động riêng.
Chúng sẽ tự đến trường khi chỉ mới 6 tuổi. Nếu trường học ở gần, các em sẽ tự đi bộ tới trường. Nếu trường ở xa, các em sẽ học cách bắt xe buýt, tàu điện ngầm, taxi … để đi đến trường và tự về nhà.
Không những thế, giờ tan trường vào khoảng 3 đến 5 giờ chiều trong khi những cha mẹ người Nhật lại thường về nhà muộn hơn. Chúng sẽ ở nhà chờ cha mẹ khoảng vài tiếng đồng hồ, hoặc sẽ tự nấu ăn và tự chơi trong nhiều giờ liền nếu cha mẹ về nhà trễ. Đó là điều rất bình thường trong cuộc sống ở Nhật Bản. Cũng có những em thì thích la cà một số nơi như công viên, siêu thị, nhà sách hoặc một nơi công cộng nào đó.
Trong khoảng thời gian mấy tiếng ở một mình đó có thể làm cho nhiều người lo lắng bởi vì sợ đứa trẻ có thể sẽ cảm thấy cô đơn hoặc dễ sa ngã vào một thói quen xấu nào đó bởi vì không có người lớn giám sát. Tuy nhiên, phần đông các em học sinh sẽ tham gia vào một lớp học ngoại khoá (after school) cho tới khi cha mẹ tới đón về. Những em có thể ở nhà một mình thường là những em có khả năng độc lập hơn các em khác và có thể tự làm một số việc mà không cần sự có mặt của cha mẹ.
Người Nhật xem nước Nhật đủ an toàn để khuyến khích con cái độc lập
Có rất nhiều câu chuyện tương tự nhau được chia sẻ lại của những gia đình Nhật Bản di cư ra nước ngoài sống. Họ nói rằng họ có thể cho con cái tự làm mọi thứ và cha mẹ chỉ giám sát và ít làm thay con khi họ còn sống ở Nhật bời vì họ tin vào trật tự trong xã hội Nhật. Tuy nhiên, họ không lựa chọn cách tương tự khi sống ở nước khác bởi vì có rất ít lý do để họ tin rằng nơi đó an toàn cho con họ.
Điều đó cho thấy rằng, những cha mẹ người Nhật biết quan sát và đánh giá lúc nào là cần thiết để con tự làm và lúc nào họ cần can thiệp để tạo điều kiện cho con. Cách dạy con trong gia đình và hệ thống giáo dục của Nhật từ khi các em vừa được sinh ra sẽ cho thấy điều đó rõ hơn.
Kể từ một tuổi các em đã được hướng dẫn để tự dọn dẹp, được hướng dẫn cách ngồi lắng nghe và vận động đúng cách. Từ ba tuổi các em được dạy hát, dạy vẽ, dạy chơi các loại nhạc cụ, chơi thể thao .... Tới khi các em bắt đầu dần rời xa sự bảo bọc trực tiếp của cha mẹ là khi bước vào trường tiểu học các em đã biết rất nhiều kĩ năng khác nhau để có thể tự tiêu khiển hoặc hoà mình vào cộng đồng. Kỹ năng giá trị nhất giúp các em thích nghi nhanh chóng vào cuộc sống bên ngoài đó là tính kỷ luật.
Xã hội bên ngoài trường học ở Nhật cũng là môi trường an toàn hơn so với phần đông các nước khác trên thế giới. Hệ thống giao thông công cộng của họ rất hoàn chỉnh đặc biệt là có tính kết nối cao tới những cơ sở công cộng như trường học, thư viện, nhà sách, công viên… Ngoài ra, những tiện ích công cộng khác luôn dành sự ưu tiên cho trẻ em. Các em có lối đi riêng hoặc có những biển báo chỉ dẫn để người khác nhận thức về sự hiện diện của các em.
Chiếc cặp của các em cũng khá đặc biệt. Đó là một chiếc cặp khá lớn đựng được rất nhiều đồ trong đó. Các em mang theo đồ dùng cá nhân, truyện, đồ chơi hơn là các dụng cụ học tập bởi vì các em thường để sách vở lại trên trường. Bề mặt của chiếc cặp có ánh dạ quang để giúp người lái xe có thể tránh các em vào buổi tối. Nó cũng có chuông báo động trong những trường hợp nguy hiểm.
Việc bỏ lơ con cái có xảy ra ở Nhật Bản không?
Theo như báo chí đăng tin thì đúng là có. Có thể có những gia đình vì đặc thù công việc của họ mà thời gian dành cho con rất ít ỏi. Hoặc có những gia đình điều kiện tài chính khó khăn hơn thì không thể cho con cái tham gia các lớp học ngoại khoá cho tới khi cha mẹ đi làm về nhà. Thậm chí nhiều người đi làm cả ngày cuối tuần vì thế gần như không có thời gian để chơi với con. Nhiều trẻ em trong số các em có điều kiện gia đình như vậy chắc hẳn sẽ cảm thấy rất cô đơn và thiệt thòi hơn so với các bạn đồng lứa.
Nhưng một điều rất rõ ràng là những trường hợp này không phải là hệ quả của xu hướng giáo dục giúp con cái tự lập. Nó xảy ra như một mặt của xã hội mà bạn có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới này. Việc giáo dục cho con cái độc lập tốn rất nhiều thời gian và công sức của cả gia đình và xã hội trong khi đó việc bỏ lơ con cái tự lớn thì hoàn toàn ngược lại. Đó là hai điều hoàn toàn tách biệt nên rất quy kết sự liên quan với nhau.
Hãy suy nghĩ về ngày mai khi chúng ta ngày càng bận rộn hơn thì quỹ thời gian nào sẽ dành cho việc dạy con cái!? Một, hai tiếng để vui đùa với con cái mỗi ngày trước khi chúng lên giường đi ngủ để chuẩn bị đến trường vào ngày hôm sau cũng không hề dễ dàng gì để thu xếp huống chi là một lịch dạy học cố định dành cho con.
Khi ông bà và con cái dần có xu hướng ở riêng thì những đứa cháu sẽ tăng thời gian học từ một buổi, thành hai buổi trên trường để lấp đi một ngày đi làm của cả cha lẫn mẹ. Đó sẽ là điều sẽ xảy ra trong một xã hội phát triển hơn và có tính phân công lao động cao hơn.
Tuy nhiên, cho dù trường học có cải tiến như thế nào chăng nữa thì cũng không thể nào nhận hết trách nhiệm giáo dục một đứa trẻ cho trọn vẹn được. Một phần rất quan trọng trong việc giáo dục sẽ dành cho cha mẹ. Họ sẽ phải tính toán rất nhiều để làm sao cho chu toàn trong quỹ thời gian rất hạn chế còn lại.
(Ce Phan: Con gái vui chơi ở công viên)
Bài học từ Nhật Bản về giáo dục con cái
Lợi thế lớn nhất của những gia đình Nhật đó là phúc lợi xã hội dành cho việc giáo dục con trẻ. Đầu tiên đó là chế độ nghỉ sản một năm dành cho cha hoặc mẹ. So với Việt Nam, người Nhật có nhiều hơn 6 tháng để chăm lo cho con cái mà vẫn được hưởng những phúc lợi cần thiết nhất. Hơn thế nữa, hàng tháng chính phủ Nhật còn có thêm phần trợ cấp bằng tiền mặt để hỗ trợ mỗi gia đình sau khi sinh con.
Đó là lợi thế ban đầu nhưng trách nhiệm giáo dục con cái vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào gia đình mặc cho nền giáo dục của Nhật Bản đã rất tiên tiến. Nhiều gia đình Nhật Bản chỉ có vợ hoặc chồng đi làm toàn thời gian và người còn lại sẽ tập trung nuôi dạy con khi con còn trong tuổi ăn tuổi học. Họ có thể chỉ ở nhà nghiên cứu việc giáo dục gia đình nếu họ có nhiều con. Những gia đình ít con thì cha hoặc mẹ sẽ có thể làm thêm bán thời gian nhưng sẽ tránh những khung giờ mà họ cần phải dành cho con cái. Họ sẽ quay trở lại với công việc bình thường một khi con cái đã trưởng thành. Đó là một sự hy sinh rất lớn mà không phải ai cũng dám làm nhưng điều này lại khá phổ biến ở Nhật.
Những cặp vợ chồng trẻ hơn ở Nhật thì có vẻ ưu tiên cho công việc hơn khi cả vợ hoặc chồng cùng đi làm. Họ chấp nhận có ít con hoặc có con muộn. Tuy nhiên, họ cũng sẽ phải dành một khoảng thời gian cố định trong ngày để quan tâm và hồi đáp những thông tin của con mình mà trường học gửi về.
Theo tôi sự liên lạc giữa trường học và gia đình chính là chìa khoá trong sự thành công trong giáo dục ở Nhật Bản khi mà nó có thể kéo cha mẹ về với trách nhiệm giáo dục con cái. Từ chính công việc dạy học của tôi trong trường, tôi được đào tạo để hiểu về tầm quan trọng trong việc chia sẻ trách nhiệm giáo dục với gia đình ở Nhật.
Trường học ở Nhật sẽ bằng nhiều cách để có thể chia sẻ chia tiết nhất về một ngày trên trường của học sinh như thế nào và ngược lại cha mẹ cũng nói cho giáo viên biết rằng con của họ như thế nào ở nhà. Đây chính là nền tảng để hình thành một nền giáo dục cá thể hoá trong sự chung sức của trường học và gia đình. Các em học sinh sẽ được động viên nhiều hơn để theo đuổi năng khiếu của mình và được quan tâm hơn cho những khuyết điểm mắc phải.
Một điều khác nữa mà tôi cũng nhận ra đó là nước Nhật có một kho tàng sách khổng lồ hướng dẫn về giáo dục dành cho cha mẹ. Có rất nhiều những chỉ dẫn và minh hoạ dễ hiểu mà ai cũng có thể làm theo. Vừa dạy học trên trường và vừa nuôi con, tôi nhận thấy những cuốn sách như trên là cầu nối tuyệt vời để bù đắp những khiếm khuyến cơ hữu giữa hai nền tảng giáo dục trên.
Người Nhật rất thích đọc sách nên họ rất nhanh chóng nắm bắt những chỉ dẫn giáo dục mà họ cần áp dụng cho con cái mình. Điều này dễ hiểu là tại sao người Nhật rất nổi tiếng trong việc nuôi dạy con cái.
Những gì đang xảy ra ở Nhật Bản có thể ở một góc độ nào đó có thể nhìn thấy được từ Việt Nam. Xu hướng giáo dục này có thể sẽ dần trở nên đại chúng với những gia đình Việt. Sự chuẩn bị của cha mẹ về cách tiếp cận trong giáo dục con cái ngay từ hôm nay là điều rất cần thiết.
Mình muốn chia sẻ trải nghiệm của mình về toilet trong trường học ở Nhật Bản bởi vì nó có khá nhiều điều thú vị với tôi, trái ngược với những ký ức về toilet ở Việt Nam khi tôi là một học sinh đến trường mỗi ngày.
(Hình ảnh cuốn nhật ký trong toilet- Ce Phan)
Một ký ức khó quên về toilet Việt Nam
Trường mầm non nơi tôi học vào khoảng từ 1993-1995 có một hầm cầu, nhưng con nít thì chẳng bao giờ vào đó, nó dành cho "người lớn". Chắc cũng chẳng dành cho các cô giáo vì các cô đều sống gần đó nên sẽ ưu tiên đi vệ sinh ở nhà. Dường như không có một cái toilet nào đúng nghĩa ở trường mầm non mà tôi học vì xung quanh trường lúc nào cũng đầy phân!
Trường tiểu học thì chỉ cách đó chừng 100m. Điều kiện toilet trong ký ức tôi quả là rất tồi tệ. Có thể kể đến hàng chục sự cố xảy ra một khi bị đau bụng trên trường. Chuyện thường xảy ra nhất là sợ bị dẫm "mìn" trên đường đi ra toilet. Mùi thối của phân, mùi khai của nước tiểu dọc theo bờ rào tờ lớp học ra đến cầu tiêu. Bên trong cầu tiêu thì đúng là một nơi mà không thể tưởng tượng nổi. Cây cỏ mọc hoang bên trong đó bởi vì ngói đã vỡ và ánh sáng chiếu thẳng vào bên trong. Cũng tương tự như bên ngoài, bên trong cầu tiêu cũng đầy phân dưới sàn và khai ngấy mùi nước tiểu.
Trường trung học cơ sở cách đó chừng 500m thì cũng trong điều kiện tương tự. Mỗi lần bị vào thế bí phải vào nhà vệ sinh thì coi như là một thử thách lớn. Tới tuổi dậy thì cũng là lúc sự ngượng ngùng tăng lên. Đi vào nhà vệ sinh mà để bạn bè khác phải biết thì cũng thấy không thoải mái rồi. "Đi vệ sinh" mặc nhiên trở thành một suy nghĩ tiêu cực vì có quá nhiều thứ dơ bẩn ở đó.
Từ cấp này trở xuống, tôi đều học ở "trường làng" nên gần như hệ thống hạ tầng cơ sở không có, không có hệ thống thoát nước bẩn. Chỉ có hầm cầu nhưng cũng ở dạng đơn sơ chứ không phải bể tự hoại như các bạn thấy sau này.
Đến cấp trung học phổ thông, tôi được "vào phố" để học nên cảm giác lúc đó rất sướng. Tôi bước vào toilet của trường lần đầu tiên trong ngày tựu trường tháng 9 năm 2003 và tôi cảm thấy sung sướng vì so với những cái toilet tôi biết trước đây thì toilet trong trường này phải nói là tuyệt vời. Có bồn cầu ngồi xỏm, có xô nước để dội, có thùng đựng giấy đi cầu. Nhưng có hai thứ cũng chưa được ổn lắm đó là cái máng đi tiểu và sàn. Nó luôn luôn ngậy mùi khai mặc dù có thùng nước để sẵn để dội mỗi khi đi tiểu. Có lẽ có quá nhiều học sinh tiểu vào tường hoặc xuống sàn nên lúc nào nó cũng ướt nhẹp.
Toilet trong trường học ở Nhật Bản rất tiện nghi và sạch sẽ
Chính vì những ký ức thời tuổi thơ còn giữ lại đâu đó trong tâm trí nên đi đâu tôi cũng dòm ngó toilet và để ý rất kỹ từng chi tiết trong đó.
Làm trong trường học vì thế tôi để ý khá kỹ về toilet và những hoạt động liên quan. Giáo viên ở Nhật Bản phải tự phân công nhau về trách nhiệm giữ gìn vệ sinh trong trường. Dĩ nhiên, tôi cũng phải đảm đương việc lau chùi toilet như bất kỳ ai.
Trường nơi tôi đang dạy, có khoảng hơn 20 nhân sự, khoảng 60 học trò nhưng có đến 4 toilet cho giáo viên, 10 bồn cầu cho học trò (có cả bồn tiểu đứng cho học trò nam) và có hơn 10 bồn rửa tay, 1 phòng tắm. Các thiết bị bên trong đều rất tiện dụng: có chế độ nước nóng lạnh, điều chỉnh dòng nước chảy trong vòi. Riêng cái bồn cầu thì có không biết bao nhiêu tính năng trong đó, quan trọng nhất là tính năng xịt nước rửa tự động. Tôi rất thích rửa bằng tia nước như thế vì cảm thấy sạch sẽ và thoải mái hơn sử dụng giấy. Dĩ nhiên, vẫn sẽ dùng giấy để lau khô sau đó.
Điều đặc biệt nhất trong toilet đó là một cuốn nhật ký (giống một cuốn sổ) để mỗi khi ngồi vào bồn cầu thầy cô có thể đọc qua những ghi chú dí dỏm của nhau về những điều trong trường. Thường là những dòng ghi chú đó viết về những khoảnh khắc đáng yêu nhất của học trò mà thầy cô thấy ấn tượng.
Không biết có nơi nào đó trên thế giới làm như vậy không? Việc đọc những dòng chữ vui vui trong toilet rất lạ đối với tôi. Tôi còn khá rụt rè trong việc viết lại những trải nghiệm của mình vào cuốn nhật ký này. Tuy nhiên, lần nào vào toilet tôi cũng mở ra đọc những chia sẻ mới trong đó.
Về việc dạy trẻ đi toilet, tôi thấy người Nhật chỉ dẫn rất bài bản và vì thế các em biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và cũng biết cách giữ toilet sạch sẽ và ngăn nắp. Các em được “tập huấn” đi toilet đúng cách từ khi bắt đầu có ý thức về tiểu tiện và đại tiện (khoảng gần 1 tuổi), cũng vì thế mà các em đã có thể tự mình đi toilet và lau chùi cho mình khi mới 3 tuổi.
Một vài bước cơ bản mà các em phải biết như:
Biết cách xin phép đi toilet
Biết mở cửa, mở đèn trong toilet
Biết mang dép dành riêng để đi vào toilet
Biết sử dụng giấy toilet đúng cách
Biết đặt dép, đóng cửa, tắt đèn sau khi ra khỏi toilet
Biết 6 bước rửa tay đúng cách trước khi trở lại lớp học.
Một điều khác biệt lớn giữ toilet ở Nhật Bản và toilet những nơi tôi từng đến là cái sàn. Nó lúc nào cũng được giữ khô ráo. Được vậy là nhờ ý thức người sử dụng toilet và cả việc lau dọn thường xuyên.
Toilet cho người lớn thì thiết kế gọn gàng, có đủ các hộc tủ chức năng để chứa các dụng cụ. Toilet dành cho trẻ em thì rất bắt mắt với nhiều hoạ tiết và hình ảnh hoạt hình. Nói chung, trải nghiệm bên trong toilet là rất tuyệt vời nên không có chuyện “trì hoãn” việc đi toilet tại trường học để chờ về nhà mới đi.
Tôi trải nghiệm được sự đối lập lớn như vậy về hình ảnh toilet trong quá khứ và những gì nhìn thấy mỗi ngày ở hiện tại. Đó quả là một sự thay đổi vô cùng lớn mà tôi thấy cần phải viết lại để đâu đó những nhà giáo dục tại Việt Nam có thể đọc được và cố gắng cải thiện điều kiện hiện tại cho sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tiện nghi hơn cho người sử dụng nói chung mà nhất là cho trẻ em Việt Nam.
Khác với chương trình giáo dục ở Việt Nam, hầu hết học trò ở Nhật học toàn thời gian (từ sáng đến chiều). Điều đó có nghĩa là các em sẽ ăn trưa và ăn giữa buổi chiều ở trên trường. Với đặc thù như vậy, các nhà giáo dục ở Nhật đã xem việc giáo dục về ẩm thực (food education) là một phần quan trọng trong chương trình học, đặc biệt là cấp học mầm non và tiểu học.
(Hình ảnh về bữa trưa của mình. Phần ăn của học trò cũng tương tự như thế nhưng ít hơn)
Trẻ em ở Nhật học được rất nhiều điều từ chương trình giáo dục về ẩm thực này. Đó không chỉ là hiểu các thành phần có trong mỗi bữa ăn mà còn hiểu các hoạt động nông nghiệp và sản xuất để tạo ra những món đồ ăn đó. Xa hơn nữa, các em có cơ hội tìm hiểu về văn hoá ẩm thực ở các nước khác khi các em được thử những món ăn mới đến từ nhiều nước.
Trường học ở Nhật Bản thường sẽ cung cấp bữa trưa và món ăn nhẹ vào giữa buổi chiều. Học trò sẽ tự mang theo nước uống.
Một điều rất ngạc nhiên là ở Nhật, trẻ em có thể uống trà ở bất kỳ độ tuổi nào. Ở Việt Nam, trà thường được hiểu là một loại nước uống làm từ lá trà và phù hợp hơn cho người lớn. Nhưng trà ở Nhật làm từ rất nhiều nguyên liệu khác nhau do vậy loại nước uống này rất đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng hơn.
Mỗi em sẽ mang theo một bình đựng trà để đủ dùng cho cả ngày trên trường. Dĩ nhiên, ở trường lúc nào cũng có sẵn nước uống bổ sung nếu các em uống hết bình nước của mình. Bình đựng trà của các em cũng rất đặc biệt. Thứ nhất, đó là loại bình nóng lạnh để đảm bảo chất lượng nước uống được đảm bảo. Thứ hai, mỗi bình đều phải có túi bọc ngoài và vai sách để có thể mang theo khi các em đi bộ tập thể dục ở bên ngoài trường. Giáo viên sẽ nhắc phụ huynh nếu bình nước không đảm bảo được tiêu chuẩn trên. Họ cũng sẽ kiểm tra các bình nước để chắc chắn rằng bình nước đã được rửa sạch và đổ nước mới vào đó mỗi ngày.
Một buổi ăn trưa ở trường học diễn ra như thế nào?
Sau các giờ học buổi sáng. Các em sẽ nghỉ giữa trưa và đó là lúc các em sẽ ăn trưa trên trường. Thường thì buổi trưa sẽ bắt đầu khoảng 11 giờ trở đi. Trước bữa ăn, các em từ 6 tuổi trở lên được hướng dẫn dọn bàn ghế ăn, sau đó sẽ rửa tay sạch sẽ. Dĩ nhiên, bàn ghế phải được lau chùi sạch sẽ.
Mỗi trường sẽ có cách tổ chức bữa ăn khác nhau tuỳ theo số lượng học trò và điều kiện không gian trong trường học. Dẫu vậy, các yêu cầu sau đều tương tự nhau ở hầu hết các trường.
Giáo viên hoặc người nấu bếp trong trường sẽ chuẩn bị đồ ăn vào từng phần ăn riêng biệt. Học trò sẽ tự mình bưng đồ ăn và trải ăn bàn ăn cho riêng mình. Các bé từ 3 tuổi đã được dạy để tự sắp xếp bữa ăn cho mình.
Một bữa ăn tiêu biểu của các em gồm có: cơm, món chính, rau trộn và canh. Bàn ăn sẽ được bố trí như sau: ở giữa là món chính; bên phải là canh, muỗng và nỉa; bên trái là cơm; đồ ăn tráng miệng đặt phía trên cùng bên phải; đũa đặt ngang trước món chính theo hướng tay thuận. Nếu các em thuận tay trái thì sẽ bày trí bàn ăn ngược lại.
Sau khi các bước chuẩn bị hoàn tất, giáo viên sẽ nói về các thành phần trong bữa ăn và cách chế biến căn bản cho những món ăn này. Bên cạnh bữa ăn được tính toán sao cho đảm bảo dinh dưỡng , nó còn có một số mục đích khác mang tính giáo dục. Chẳng hạn, nhà trường muốn dạy về một số loại lương thực theo mùa, xuất xứ của nguyên liệu, các trình bày món ăn theo chủ đề trong tháng, văn hoá ẩm thực nước ngoài …
Bữa ăn sẽ bắt đầu bằng câu nói “Itadakimasu” (chúc ngon miệng) và kết thúc bằng câu “Gochisousama deshita” (cám ơn vì bữa ăn ngon). Bữa ăn thường kéo dài khoảng 30-45 phút (tương đối thong thả) nên các em được khuyến khích ăn hết phần ăn của mình vì nó đã được tính toán vừa đủ cho độ tuổi của học sinh. Các em cũng luôn được nhắc nhở là chỉ ăn, uống khi ngồi thong thả và không được làm như thế khi đứng và đi. Sau khi ăn xong, các em sẽ dọn dẹp và lau dọn bàn ghế và đưa về vị trí cũ.
(Hình ảnh chén canh với những cộng mì theo hình của các chữ cái và con số)
Giáo dục về ẩm thực không chỉ trên bàn ăn
Chính vì mong muốn trẻ em lớn lên có thể có được nhận thức sâu sắc về ẩm thực một cách toàn diện. Nội dung về ẩm thực cũng được xuất hiện trong bài giảng và nằm trong các chủ đề định kỳ trong trường học.
Các em được dạy để nhận ra các thực phẩm có lợi và an toàn cho sức khoẻ. Trẻ em thường chỉ thích ăn những gì mình thích nên dạy các em ăn sao cho hợp lý cũng là một thách thức. Giáo viên ở Nhật Bản rất “có nghề” trong việc diễn giải sao cho các em dám thử những đồ ăn mới hoặc ăn được những thứ không thích.
Xa hơn nữa là các em được tận tay làm ra những món ăn đơn giản như các loại nước ép trong những buổi học chuyên đề; hoặc tự trồng và chăm sóc các loại rau củ trong vườn; nhận biết các loại hạt giống và tìm hiểu về ẩm thực từ nhiều nước.
Hoạt động ẩm thực nào thú vị nhất
Dường như hầu hết các em đều đã quen với với những bữa cơm trên trường nên trường học ở Nhật Bản sẽ có những ngày mà các em sẽ tự mang theo cơm hộp để ăn.
Nghe qua rất bình thường, nhưng với các em học trò ở Nhật thì rất đặc biệt bởi vì ngày đó các em sẽ được ăn những món yêu thích nhất do ba mẹ nấu. Cũng là dịp để tìm hiểu những món ăn yêu thích của bạn bè. Các em đều rất hớn hở tìm hiểu về những món ăn mà các em mang theo trong những ngày hôm đó.
Tuy nhiên, cha mẹ trong những ngày này sẽ phải bận rộn hơn trong việc chuẩn bị bữa ăn cho con, và đôi khi cũng thấy áp lực vì không biết liệu đồ ăn mình nấu có sơ sài hoặc không đúng với tiêu chuẩn ẩm thực thông thường trên trường hay không. Một điều nữa là cha mẹ sẽ phải nói chuyện đôi chút với con cái về những món ăn đó bởi vì sẽ có nhiều câu hỏi đến từ thầy cô và các bạn trên trường.
Nhìn chung, người Nhật rất quan tâm về việc dạy trẻ ăn uống như thế nào để tốt cho sức khoẻ. Trường học chính là nơi mà các em trải nghiệm về ẩm thực bài bản nhất.
Ce Phan
Tôi hỏi 100 người, thì đến 97 người bảo: Mông Cổ ấy à? nghèo lắm hả? Tới làm chi !...Sai.
Khái niệm về một nước Mông Cổ nghèo khó ngự trị trong đầu óc dân Việt Nam từ thời cùng phe XHCN.
(Nguồn hình minh hoạ www.bordersofadventure.com)
Nhà văn Tô Đức Chiêu bảo tôi:
"Tao đã đi Mỹ, Ai Cập, Ả rập xê út, Nga và Đông Âu, không kể châu Á như Tàu, Thái... Tức là gần hết thế giới, nhưng khi đi Mông Cổ, mới thấy mình khám phá ra một thế giới mới, nếu có dịp, tao đi 2 -3 lần nữa".
Tôi thấy thế nên cũng đú theo, đi Mông Cổ một chuyến. (Mở ngoặc ngay là, khi anh (du lịch) đến đâu, anh phải tự vấn ta đến đấy để làm gì, muốn biết gì. Nói chung là nên đi phượt. Tôi có bài học kinh nghiệm về việc này, có 1 cậu trẻ đi cùng đến thảo nguyên Mông Cổ, cậu thốt lên chán nản: Ơ, đâu cũng như đâu, mênh mông cả, chả thấy cái gì.
Nhưng vấn đề là cái gì?
Sau chuyến đi Mông Cổ, tôi rút ra kết luận, 30 năm nữa (hoặc hơn) không biết Việt Nam mình có đuổi kịp Mông Cổ hay không?)
Mông Cổ diện tích gấp hơn 6 lần nước Việt Nam, dân số hơn 3 triệu người (bằng 1/2 của thủ đô Hà Nội). Mà 1/2 dân số ở thủ đô Ulan Bato.
Hãy tưởng tượng hơn 1 triệu người còn lại ở rải rác trên lãnh thổ gấp 6 lần Việt Nam.
Mông Cổ có đặc biệt là có biên giới với Nga và Trung Quốc. Họ bị kẹp giữa 2 nước lớn, nên phải chọn 1, lịch sử đã chứng tỏ họ chọn đúng, chọn nước Nga để tránh nước Tàu kẻ thù. Chính chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vì khuất phục trước chính phủ Stalin mà phải công nhận Mông Cổ độc lập. Chuyện này chính phủ Mao cay cú ra mặt, công khai gọi Mông Cổ là Ngoại Mông, còn phần lãnh thổ Mông Cổ bị mất từ thời Nguyên triều, thì TQ gọi là Nội Mông (họ vẫn nhận đó là nước họ). Cấp độ cay cú ăn thua và nhòm ngó còn hơn một bậc so với Việt.
Người TQ chưa gọi Quảng Đông là Nội Việt, mặc dù vẫn dùng từ Việt gọi "Quảng", Việt ngữ là "tiếng Quảng", họ chưa gọi Việt Nam là Ngoại Việt. Nói thế để biết mức độ nguy hiểm chênh vênh của con ngựa Mông Cổ trước con sói Trung Quốc.
Ở Mông Cổ, tôi được nghe câu chuyện tiếu lâm. Một người Mông Cổ gặp một người Nhật. Người Nhật cám ơn người Mông, vì bài học của Nguyên triều, nên nước Nhật quyết định không chiếm Trung Quốc nữa. Nếu chiếm nó, có lẽ nước Nhật đã thành Trung Quốc rồi. Đó là một câu chuyện tiếu lâm cay đắng mà không thể cười.
Ân oán giang hồ với người Tàu thì rất nhiều. Chỉ kể 1 chuyện. Các công ty xây dựng ở Ulan Bato, và nói chung các công ty khác cần nhân công, thì đều thuê nhân công TQ, vì người TQ sinh sôi như cỏ dại, ở đâu họ cũng mò đến. Nên các công ty có quy định, chỉ được thuê dưới 6 tháng, mà trong 1 năm không được thuê quá 1 lần. Nên người làm thuê phải đi về TQ ngay sau khi hết hợp đồng. Cảnh sát Ulan Bato rất dễ dãi với người Việt sinh sống ở thủ đô của họ, hình như có khoảng 7000 người, còn riêng người TQ thì phải thống kê rất cụ thể. Người bạn Mông Cổ nói với tôi: Việc lớn nhất của cảnh sát là đuổi người Trung Quốc hết hạn cư trú. Đúng vậy, họ không có tình trạng kẹt xe, không có tệ nạn nhiều, việc chính là không để lọt một cái trứng tu hú. Chuyện này 30 hay 50 năm nữa, Việt Nam cóc làm được, mà cũng chả làm.
(Một cuộc phỏng vấn hay của đài China Uncensored về Mông Cổ)
2.
Nhìn trên phim ảnh, thấy thảo nguyên là những dải đất trùng điệp, cây cỏ lưa thưa, nếu chỉ có thế, chưa biết gì về thảo nguyên Mông Cổ cả. Hồi tôi đi tầm tháng 7 dương lịch, là tháng đã hết cỏ rậm. Cỏ rậm thì đến ống chân, đến đầu gối, còn khi chuẩn bị vào đông, cỏ bị đám gia súc gặm gần hết. Chỉ còn cỏ thấp và cỏ tái sinh.
Nói từ "cỏ" với người Việt, cũng không ổn. Cỏ của Việt Nam là thứ chả để làm gì. Điều này lỗi ở các nhà làm ngôn ngữ khoa học, địa lý. Đáng lý nên dùng từ "thảo mộc thân mềm" hay cái gì đó khác với "cỏ". Cúi nhìn xuống, hàng trăm hàng nghìn loài cây gọi là cỏ rất khác nhau, riêng hình lá cũng thiên hình vạn trạng. Nếu vò vài cái lá rồi đưa lên mũi, sẽ thấy nhiều mùi vị rất khác. Mùi thơm thoang thoảng, mùi hắc, mùi nồng... Thực sự đó là một thế giới cây thuốc và loại cây như rau thơm ở VN, chứ không phải cây cỏ thông thường. Gia súc Mông Cổ từ hàng nghìn năm nay ăn thứ cỏ đó. Sau khi đi thảo nguyên, tôi mới lý giải được việc ở Mông Cổ, người ta ăn rất ít rau, ăn rất nhiều thịt, ngay cả người Việt ở xứ ăn rau, đến Mông Cổ ăn toàn thịt, mà tiêu hóa bình thường, không bị táo bón. Bởi vì lũ gia súc ăn thứ cỏ thiên nhiên hoang dã bổ béo thơm lừng như hàng nghìn năm nay nó vẫn ăn. Không như gia súc ở nơi nuôi công nghiệp.
Mông Cổ ngày nay vẫn du mục và người ta tự hào vì nếp sống du mục này. Ông Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông -Việt nói tiếng Việt sõi như người Việt, bảo tôi, rất may là thảm họa tập thể hóa, định canh định cư xảy ra rất nhanh, rồi thảo nguyên lại có sức sống quay lại nếp xưa.
Nếu ai đã đọc Tô-tem sói, của một nhà văn Trung Quốc (quyển này vang dội một thời trên văn đàn TQ) thì biết thảo nguyên Nội Mông đã bị tàn phá kinh khủng như thế nào. Họ dồn nén dân du mục vào hợp tác, triệt phá cách sinh hoạt truyền thống, mang hàng sư đoàn quân đội bắn sói. Sói là vật thờ của người Nội Mông, khi người chết, người ta kéo xác cha mẹ để ra một chỗ cho sói ăn. Người TQ Mao-ít bắn sói, thế là thỏ làm giặc, lại giết thỏ, lạc vào cái vòng quẩn, rồi đưa người Hán đến sinh sống, khiến thảo nguyên Nội Mông bị tiêu diệt. Trong quyển sách ấy, tác giả cũng nói, nhìn sang Ngoại Mông xanh tươi mà tiếc...
Nhìn thảo nguyên thì mênh mông, nhưng hoang dã hàng trăm thứ thú hoang vẫn ngày đêm sinh sống, tuân thủ cân bằng sinh thái của nó.
Người Mông Cổ ngày nay có xe ô tô tải, có điện thoại di động, kéo theo cái nhà, và đàn gia súc, đi lang bạt trên thảo nguyên theo nhu cầu của gia súc. Thảo nguyên mênh mông, mình nhìn đâu cũng như đâu, nhưng chúng tôi đã được một chú bé 12 tuổi đưa từ thị trấn, đi xuyên 25 km đến đúng chỗ lều của bố mẹ chú bé. Hôm đi thảo nguyên, chúng tôi được đón tiếp Chủ tịch huyện đến chơi, cũng vì biết có khách Việt. Ông nói huyện ông có gần 80 hộ, diện tích huyện, khi đó làm phép so sánh, gần bằng tỉnh Hưng Yên cộng với Thái Bình. Chủ tịch huyện biết cả 80 hộ luôn. Quy định của họ chăn thả không giới hạn, nên có lúc có hộ gia đình chăn thả ở huyện khác (miễn là đăng ký vẫn ở huyện này). Chủ tịch người Đảng Dân chủ, alo gọi đồng chí Bí thư huyện ủy Đảng Nhân dân (đảng cộng sản cũ) thì đồng chí đang chăn ngựa, bèn cưỡi ngựa về. Bí thư huyện ủy đảng nào cũng làm nông dân cả và chả chức vụ gì, cười hề hề đúng là ông chăn ngựa. Riêng chuyện này, 50 năm nữa Việt Nam có theo kịp không?
3.
Người Mông Cổ có một niềm hãnh diện đã mất, đó là đã từng bá chủ thế giới, và còn một niềm kiêu hãnh vẫn còn, đó là sữa ngựa.
Thế giới văn minh và ở các nước phát triển có chỉ tiêu bao nhiêu lít sữa bò cho đầu người, thứ sữa đó người Mông Cổ chỉ làm lương khô, làm nguyên liệu chế biến, vì họ uống sữa ngựa. Hình như chỉ Mông Cổ dùng sữa ngựa làm thực phẩm chính yếu. Nó là nguồn gốc sức mạnh của các chiến binh từ xưa, và khiến người MC cao lớn.
Ngựa là gia súc chủ yếu ở thảo nguyên. Một hộ thường có vài trăm đến vài ngàn ngựa, thêm cừu và dê. Bao giờ cừu cũng đi kèm dê. Mùa đông cừu nằm trên giữ ấm cho dê moi cỏ chia nhau. Không có cừu dê chết rét, không có dê cừu chết đói. Kiểu chăn thả thiên nhiên ấy khác xa nông trại hiện đại. Kiểu vắt sữa ngựa cũng khác vắt sữa bò. Vì khi vắt sữa, luôn luôn có con ngựa con đứng cạnh. Người MC tôn thờ ngựa vì cả đức tính này, không buông tuồng vô cảm như bò, cứ vắt là ra sữa bất kể thế nào. Sữa ngựa làm bia, làm thức uống, nên con ngựa là đầu cơ nghiệp. Bò chỉ là loại thêm. Bò MC lông dài như voi mamut. Bây giờ cũng thoái giống, người MC buồn vì bò lông ngắn, còn gì là bò nữa.
Gia súc nuôi, thịt là thứ phẩm. Chính phẩm là lấy lông và da. Len MC đắt kinh khủng. Hình như hàng lông da là chủ lực xuất khẩu.
Cái lều Mông Cổ thật sự là một thứ thú vị. Cứ nói "lều" thì khó hình dung, đến mới thấy đó là cái biệt thự giữa thảo nguyên. Bây giờ lều có nhiều loại, từ 300 đến 30.000 đô Mỹ. Người TQ quá khôn, họ làm lều bán cho người Mông Cổ.
Trong cái lều Mông, tài nhất là cái bếp ở chính tâm nhà, tâm vòng tròn. Chất đốt bằng phân gia súc, thông hơi làm nhiệm vụ trụ chống giữa. Vào lều không nhận ra có bếp.
Người nông dân du mục cũng có vấn đề nan giải, đó là sinh ra và nuôi dạy trẻ. Du mục xa trung tâm thị trấn, nên nếu đẻ bất thường thì cấp cứu rất khó. Khi con 6 tuổi, phải cho nó đi học, thì nhà mất 1 người thường là mẹ hay chị lớn phải đưa lên thị trấn làm 1 cái lều ở nuôi con 1-2 năm mới yên tâm gửi con học nội trú. Ở các thị trấn thị tứ cứ thấy các cụm lều, đó là những người đi nuôi con học. Vì vậy, mà nhà nghèo hoặc quan điểm cũ chỉ cần đọc chữ, trẻ thất học.
Hình như chính việc hiếm người mà du mục có truyền thống quý người. Phụ nữ đẻ con là quý, con ai không quan trọng. Mấy ông Mông Cổ bảo, cộng đồng du mục có lệ, khách quý cao tuổi thì chủ nhà mời đầu dê. Thịt con dê, cái đầu là quý nhất. Còn khách trẻ và trung niên thì chủ nhà bảo con gái sưởi ấm cả đêm. Tôi không ở qua đêm ở thảo nguyên, nhưng nghe kể lại, các nhà văn Trần Nhương, Tô Đức Chiêu, Thúy Toàn có ngủ đêm thảo nguyên và được coi là khách quý trung niên. Vấn đề là các bác ấy có chịu đựng được mùi mồ hôi người ăn thịt cừu, uống sữa ngựa và 3 tuần mới tắm không thôi.
Người MC rất có ý thức giữ gìn môi trường thảo nguyên. Tôi khá ngạc nhiên. Mọi người picnic thu dọn rác tống lên xe về bãi rác ngoại ô vứt. Họ nói tivi có nhiệm vụ quan trọng nhất là tuyên truyền giữ sạch thảo nguyên. Và việc này chỉ có từ khi cách mạng dân chủ đa đảng. Người lái xe dẫn chúng tôi mặc dù xe chật, kiên quyết mang bao tải rác trên xe để về đến bãi rác ngoại ô.
Ở Ulan Bator, anh là công chức, lập tức được cấp 0,99 ha ở ngoại ô làm nhà nghỉ. Cuối tuần, chiều thứ 6, lũ lượt xe rời thủ đô ra ngoại ô. Thứ 7, Chủ nhật thủ đô vắng thênh thang. Tối CN, lại rồng rắn về thành phố. Nếu không phát động giữ thảo nguyên thì chả mấy chốc thảo nguyên nghìn đời thành bãi rác. Và họ đã làm được rất tốt. Tương tự thảo nguyên của họ là rừng là biển của người Việt, than ôi, chúng ta đã cư xử như là tự phá hủy cơ thể!